Tiếng ồn của tàu thuyền có ảnh hưởng tiêu cực tới cua
Một nghiên cứu mới được công bố trên Biology Letters phát hiện thấy rằng tiếng ồn từ tàu ảnh hưởng đến quá trình trao đổi chất của cua, phần lớn cua ở trong tình trạng tồi tệ nhất, và có rất ít bằng chứng cho thấy cua thích nghi được với tiếng ồn theo thời gian.
Năm 2014, được sự hỗ trợ của Trung tâm Khuyến nông Nghệ An, Trạm Khuyến nông huyện Diễn Châu đã thực hiện thành công mô hình “Nuôi cua biển thương phẩm”.
Nhằm chuyển giao những tiến bộ kỹ thuật mới cho người nuôi trồng thủy sản, giúp bà con phát triển sản xuất nâng cao hiệu quả và tăng thu nhập.
Cua biển phân bố nhiều ở vùng biển nước ta, trong đó là cua xanh có tên khoa học là Scylla serrata (Forskal) là loài có kích thước tương đối lớn, có giá trị kinh tế cao…
Anh Nguyễn Thanh Tùng (30 tuổi, Phó bí thư Xã đoàn An Trạch, H.Đông Hải, Bạc Liêu) đã mày mò áp dụng thành công mô hình nuôi cá chẽm kết hợp nuôi cua biển đạt hiệu quả cao.
Cua biển phân bố nhiều ở vùng biển nước ta, là loài có kích thước tương đối lớn, có giá trị kinh tế cao…
Cua biển rất phổ biến do nhu cầu rất lớn của nó trong thị trường xuất khẩu. Quy mô thương mại nuôi cua biển đang phát triển nhanh chóng cùng các khu vực ven biển của Andhra Pradesh, Tamil Nadu, Kerala và Karnataka (các bang nằm ở miền Nam , Ấn Độ).
Nuôi cua biển đang rất phổ biến tại một số nước châu Á như Bangladesh, Ấn Độ, Thái Lan, Philippine v.v… Cua biển có một nguồn nhu cầu lớn và được giá trên thị trường thế giới. Do cua biển có hương vị khá ngon nên nhiều nước trên thế giới nhập một số lượng lớn để tiêu thụ hàng năm. Kết quả là, một lượng lượng lớn ngoại tệ có thể kiếm được bằng cách xuất khẩu cua.
Cua biển (Scylla serrata) là một loài thủy sản tiềm năng bởi sự tăng trưởng nhanh chóng, được ưa chuộng trên thị trường và giá trị kinh tế của nó. Tuy nhiên, việc nuôi cua biển đòi hỏi nguồn vốn đáng kể cho việc mua giống và nuôi thương phẩm.
Cua biển (Scylla paramamosain) là một trong những đối tượng có giá trị kinh tế và xuất khẩu cao bởi hàm lượng mỡ thấp, protein cao, dồi dào về khoáng chất và vitamin. Con cua được xem là đối tượng nuôi xoá đói giảm nghèo của bà con ngư dân vùng biển.
Trong các năm gần đây do sự phát triển nhanh chóng của ốc bươu vàng và sâu bệnh hại cây trồng, dẫn đến tình trạng sử dụng thuốc BVTV ngày một nhiều hơn gây ô nhiễm môi trường nước, làm cho động vật thủy sinh ngày càng cạn kiệt.
Tận dụng những cái thùng nâng giàn quạt nước trong vuông tôm công nghiệp, anh Nguyễn Văn Nguyên (ở Bến Tre) đã cải tiến thành thùng nuôi cua biển. Năm 2009, anh nuôi thử nghiệm 700 thùng cua biển, đạt hiệu quả rất khả quan, thu lợi nhuận gần 50 triệu đồng.
Cua đồng có tập tính sinh sống bò dưới đáy ao và đào hang chui rúc, có khả năng bò lên cạn và di chuyển rất xa nên khâu quản lý phải cẩn trọng. Cua đồng là loài ăn tạp, chúng có thể ăn tấm, cám, lúa, khoai, củ, cua, cá và cả thức ăn công nghiệp của cá.
Cua đồng là đối tượng thủy sản quen thuộc, gắn bó với bà con nông dân của chúng ta từ xưa đến nay. Nuôi cua đang là một nghề mới rất hấp dẫn người dân và rất có tiềm năng. Cua sống hoang dã, rất ít bệnh tật nhưng khi đưa vào nuôi với mật độ cao hơn so với ngoài tự nhiên; cũng cần một số biện pháp kỹ thuật để đạt hiệu quả kinh tế cao.
Ao nuôi cua con thành cua thịt thường theo hình thức nuôi thâm canh có diện tích từ 500m2 đến 5000m2, nên chọn vùng dễ thay nước nhờ vào thuỷ triều để giảm chi phí, nguồn nước đảm bảo vệ sinh. Bờ ao được đắp bằng đất hoặc xây gạch, rộng từ 3-4m,cao từ 1.5 đến 2m, cao hơn mực nước triều cao nhất ít nhất là 0.5m.
Trại sản xuất cua giống nên xây dụng ở gần biển, có nguồn nước tốt, ở vùng đầm phá, rừng ngập măn ven biển có nhiều cua sinh sống, gân vùng nuôi cua, có điều kiện giao thông thuận lợi, có nguồn điện lưới quốc gia, an ninh tốt.
Cua xanh (Scylla spp) là đối tượng thủy sản có giá trị kinh tế cao, được nuôi ở nhiều nước trong khu vực Đông Nam Á, là nguồn cung cấp thực phẩm tươi sống và là nguồn thu nhập quan trọng của cộng đồng cư dân ven biển.
Cua biển có tên tiếng Anh là mud-crab, green crab, hay mangrove crab; tên tiếng Việt gọi là cua biển, cua sú, cua xanh, cua bùn, loài phân bố chủ yếu ở vùng biển nước ta là loài Scylla paramamosain (cua sen) và loài Scylla olivacea (cua lửa). Hai loài nầy là một trong những loài cua biển có kích thước lớn.
Cua đồng thuộc lớp giáp xác, bộ 10 chân. Ở nước ta cua đồng thường gặp ở vực nước ngọt: ao, hồ, ruộng, sông, suối, nước lợ nhạt vùng đồng bằng, trung du và miền núi.
Cua xanh (Scylla spp) là đối tượng thủy sản có giá trị kinh tế cao, được nuôi ở nhiều nước trong khu vực Đông Nam Á, là nguồn cung cấp thực phẩm tươi sống và là nguồn thu nhập quan trọng của cộng đồng cư dân ven biển. Ở nước ta, người dân một số địa phương như Hải Phòng, Quảng Ninh, Thanh Hóa, Nghệ An đã nuôi cua xanh từ rất lâu