Xuất khẩu cua ghẹ sang Nhật Bản tăng

Theo thống kê của ITC, trong 5 tháng đầu năm nay, Nhật Bản NK cua ghẹ từ 23 nước, đạt 12.912 tấn với giá trị hơn 172 triệu USD, giảm 23% về khối lượng và giảm 29% về giá trị. Giá cua ghẹ tại Nhật Bản trong 5 tháng đầu năm nay đạt mức trung bình 13,4 USD/kg, giảm so với mức 14,6 USD/kg của cùng kỳ năm 2014.
NK giảm phần lớn là do nguồn cung từ Nga, nước XK cua ghẹ hàng đầu sang Nhật Bản giảm mạnh 59%. Thỏa thuận chống đánh bắt thủy sản bất hợp pháp giữa Nga và Nhật Bản có hiệu lực từ 10/12/2014 là một nguyên nhân dẫn đến giảm XK cua từ Nga sang Nhật Bản. Ngoài ra, Nga ngừng NK thực phẩm từ phương Tây nên lượng cua khai thác tại Nga để phục vụ thị trường trong nước cũng tăng lên và lượng XK giảm đi.
NK cua ghẹ từ các nước ASEAN đạt 1.072 tấn với giá trị 17,86 triệu USD, tăng 2% về khối lượng nhưng giảm 5% về giá trị so với cùng kỳ. Việt Nam và Indonesia đều nằm trong top 10 nguồn cung cấp cua ghẹ lớn nhất của Nhật Bản. Giá trị NK từ Indonesia gấp đôi của Việt Nam, một phần là do giá của Indonesia cao hơn của Việt Nam. Giá cua ghẹ trung bình của Indonesia là 19 USD/kg còn của VIệt Nam là 14 USD/kg. Tuy nhiên, XK cua Việt Nam sang thị trường này đang tăng trưởng đều qua các tháng. Trong khi đó, NK từ Indonesia giảm.
Tiêu thụ thủy sản tại Nhật Bản đang chậm lại, trong khi đó, đồng yên mất giá so với đồng USD. Đây là lý do chính dẫn đến NK thủy sản của thị trường này giảm.
Có thể bạn quan tâm

Mới đây, chúng tôi tới thăm gia đình ông Võ Văn Tắc (Tư Tắc) tại ấp Phước Lợi 1, xã Suối Đá, Dương Minh Châu (Tây Ninh), được vợ chồng ông giới thiệu việc nuôi gà ta thả vườn cho hiệu quả khá cao.

Sáng ngày 4-9, tại TP Phan Rang – Tháp Chàm, UBND tỉnh Ninh Thuận cùng Tập đoàn Chen Jedang Corpration - Hàn Quốc (Tập đoàn CJ) tổ chức Lễ ký kết bản ghi nhớ “Phát triển vùng chuyên canh ớt gắn với xây dựng nhà máy chế biến ớt khô, đóng gói tại Ninh Thuận để xuất khẩu”.

Theo TCTS, sau hơn 10 năm di nhập vào Việt Nam, TTCT với những ưu thế như chu kỳ nuôi ngắn, nuôi mật độ cao, khả năng thích ứng rộng, đã trở thành một trong hai đối tượng nuôi tôm nước lợ chủ lực và đang được nuôi rộng rãi ở tất cả các tỉnh thành ven biển.

Sau một thời gian phát triển mạnh ở Bình Thuận, thu hút nhiều hộ nông dân tham gia nuôi đến nay người nuôi dông đang đối mặt với khó khăn về đầu ra cho sản phẩm. Bài toán về thị trường tiêu thụ sản phẩm đang được nhiều người dân quan tâm.

Khi nuôi tôm gặp nhiều rủi ro, ông Nguyễn Văn Siếu (ấp 17, xã Vĩnh Hậu A, huyện Hòa Bình - Bạc Liêu) đã mạnh dạn nuôi thử con hào. Ngoài việc nuôi thủy sản trên 1,5ha, ông Siếu nuôi hào bè trên sông và mang lại hiệu quả kinh tế cao.