Tăng sản phẩm chế biến sâu càphê, hồ tiêu

Đặc biệt, đầu tư nghiên cứu thay đổi cơ cấu mặt hàng theo hướng tăng sản phẩm chế biến sâu, chất lượng tốt, mở rộng thị trường tiêu thụ nhằm nâng cao giá trị gia tăng cho các sản phẩm càphê, hồ tiêu.
Cụ thể, riêng với càphê, đến năm 2020, tỷ lệ càphê tiêu dùng (càphê chế biến sâu, gồm rang xay, càphê hòa tan) phấn đấu đạt trên 25% trong tổng sản lượng càphê nhân;
Trong đó, sản lượng càphê rang xay đạt trên 50.000 tấn sản phẩm/năm, càphê hòa tan các loại trên 255.000 tấn/năm.
Theo Thường trực Ban chỉ đạo Tây Nguyên, càphê, hồ tiêu là cây trồng phục vụ xuất khẩu, gắn chặt với cung cầu của thị trường quốc tế.
Tuy nhiên, sản phẩm càphê, hồ tiêu chủ yếu là xuất khẩu thô nên giá trị gia tăng thấp.
Cả nước hiện có trên 641.700ha càphê; trong đó, có hơn 580.000ha càphê cho thu hoạch, sản lượng gần 1,4 triệu tấn càphê nhân/năm
. Các tỉnh Tây Nguyên có 573.000ha càphê, diện tích cho thu hoạch gần 532.500ha, sản lượng trên 1,3 triệu tấn nhân.
Hàng năm, 90% sản lượng càphê của Việt Nam được xuất khẩu, nhưng chủ yếu vẫn là càphê nhân xô, với đa phần là chế biến thô, chất lượng không đồng đều, tỷ lệ hạt vỡ cao nên giá bán thấp hơn sản phẩm cùng loại của các nước khác. Niên vụ 2013- 2014, cả nước xuất khẩu 1,395 triệu tấn càphê nhân, thu về 3,55 tỷ USD.
Theo ông Lương Văn Tự, Chủ tịch Hiệp hội Càphê - Ca cao Việt Nam, khi bán 1kg càphê với giá thành như hiện nay, các nông hộ, doanh nghiệp thu được gần 2 USD, tương đương với giá trung bình của 1 ly càphê (đã được pha chế) ở các nước nhập khẩu càphê, trong khi đó, 1kg càphê thì pha chế được 50 ly càphê.
Cũng theo các chuyên gia, công nghiệp chế biến sâu càphê sẽ nâng giá trị gia tăng lên ít nhất 3 lần so với càphê nhân xuất khẩu thô.
Thực tế, ở Việt Nam có nhiều nhà máy chế biến càphê, từ chế biến thô đến chế biến sâu, chưa được khai thác hết công suất.
Cụ thể, cả nước có 97 cơ sở chế biến càphê nhân, với công suất thiết kế 1,503 triệu tấn/năm, 160 cơ sở chế biến càphê bột (càphê rang xay), với tổng công suất thiết kế trên 51.660 tấn sản phẩm/năm nhưng công suất thực tế chỉ có trên 26.000 tấn/năm; 8 nhà máy chế biến càphê hòa tan nguyên chất, với tổng công suất thiết kế 36.480 tấn sản phẩm/năm, vẫn chưa hoạt động hết công suất.
Có thể bạn quan tâm

Theo ông Thanh, hiện nay bò là loài vật dễ nuôi, ít dịch bệnh, giá cả tương đối ổn định nên ít gây tổn thất về kinh tế cho người chăn nuôi. Các giống bò được nuôi phổ biến ở Tư Nghĩa trong những năm qua chủ yếu là bò vàng địa phương, bò lai sind và bò lai Zêbu. Trong đó, giống bò lai sind đã được người dân lựa chọn nuôi ngày một nhiều với quy mô hộ gia đình, trang trại, chăn nuôi tập trung theo kiểu bán công nghiệp.

Tuy nhiên, do mức giảm còn khiêm tốn nên nhìn chung giá nhiều loại thức ăn chăn nuôi trên thị trường vẫn còn ở mức cao. Tại TP Cần Thơ, hiện giá nhiều loại thức ăn gia súc, gia cầm (loại hỗn hợp dạng viên) của nhiều hãng như: Con cò, Hi-Gro, Cargill... từ 260.000 - 290.000 đồng/bao 25kg; thức ăn đậm đặc dạng cám (loại 35 - 46% đạm) ở mức 450.000 - 500.000 đồng/bao 25kg.

Ðến đất Hội Phú, xã Hoài Hảo, huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định bây giờ, tôi dễ dàng cảm nhận ngay màu xanh mướt của những vườn tiêu. Màu xanh của những vườn tiêu ở đây thật dễ chịu. Có ấn tượng này là bởi ngày xưa, có nhà báo đàn anh, nhiều lần than thở chuyện “mặn ngọt vùng đất chua” khi nhắc về Hoài Hảo.

Theo ghi nhận trong gần 40 năm qua, không có cây sinh trưởng mới khiến loài cây này đứng trước nguy cơ tuyệt chủng. Để bảo tồn và phát triển loài cây này thì việc nhân giống để trồng bổ sung là hết sức cần thiết; tuy nhiên việc nhân giống thủy tùng trong những năm qua vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn.

Số diện tích lúa đông xuân gieo sạ sớm hiện nay đang trổ chín và sẽ thu hoạch trước Tết Nguyên đán 2015 chiếm 50%, còn lại là phần lớn diện tích nông dân xuống giống đồng loạt lúa đang trong giai đoạn làm đòng sẽ thu hoạch đông ken, tập trung thời điểm tháng 2 - 3 dương lịch.