Sinh Sản Nhân Tạo Cá Rô Đồng Với Tỷ Lệ Cá Cái Cao
Cá rô đồng hiện đang được nuôi khá phổ biến ở ĐBSCL. Nguồn giống hiện nay chủ yếu do các trung tâm giống sử dụng phương pháp sinh sản nhân tạo cung cấp.
Nhưng bình thường thì tỷ lệ cá đực và cá cái tương đương nhau (mỗi loại 50%). Nuôi cá rô đồng với mục đích lấy thịt mà trong đàn cá giống có nhiều cá đực thì không kinh tế vì cá đực có đầu to, mình dẹt và dài, tỷ lệ thịt thấp, bán không được giá.
Trong cùng điều kiện nuôi thâm canh, sau 5 - 6 tháng nuôi cá cái thường đạt trọng lượng từ 120 - 150 g, còn cá đực chỉ đạt 60 - 70 g. Vì vậy người nuôi cá rô đồng thương phẩm thường thích đàn cá giống có tỷ lệ cá cái cao.
Cũng tương tự trường hợp sản xuất cá rô phi toàn đực, cách đơn giản và mau cho kết quả là dùng hormon pha vào thức ăn hoặc pha vào nước để tắm cho cá. Tuy nhiên, giá hormon sinh dục cái khá cao, ảnh hưởng đến giá thành con giống. Mặt khác, các loại hormon steroid hoặc hormon tổng hợp nhân tạo cùng tính năng là những chất có thể gây ung thư, khiến người tiêu dùng lo ngại.
Trong quá trình “cái hóa” cá rô, những cá cái được nuôi thịt không tiếp xúc với hormon trong suốt quá trình sống cho đến khi thu hoạch. Cách làm như sau: trước hết, phải tạo những “cá đực đặc biệt” (neomale): đó là cá mang bộ nhiễm sắc thể cái (XX) biến thành đực nhờ được xử lý khi còn non bằng hormon sinh dục đực methyltestosteron (MT). Về lý thuyết, trong đàn cá toàn đực được xử lý bằng MT sẽ có khoảng một nửa là những cá đực đặc biệt, một nửa là cá đực bình thường. Cá đực bình thường (mang các nhiễm sắc thể sinh dục XY) có đàn con F2 gồm nửa đực và nửa cái. Cá đực đặc biệt (XX) có đàn con F2 gồm hầu như toàn cái. Chính đàn con F2 gồm toàn cái ấy được ươm thành cá giống để nuôi thịt.
Làm thế nào phân biệt cá đực bình thường XY với cá đực đặc biệt XX? Phải kiểm tra chúng (từng cá thể) qua tỷ lệ đực cái của đàn con F2. Như đã nói ở trên, đàn con F2 của cá đực đặc biệt hầu như gồm toàn cái.
Nuôi và kiểm tra đàn con là công đoạn mất nhiều thời gian và công sức nhất: phải nuôi từng đàn con riêng rẽ cho đến thời điểm kiểm tra được theo tuyến sinh dục, đồng thời phải giữ lại từng con cá bố của mỗi đàn con để sử dụng tiếp, tuyệt đối không được để lẫn lộn cá cái, đực đã cho các đàn con F2. Kết quả nghiên cứu cho thấy, những cá đực đặc biệt cho thế hệ con với tỷ lệ cá cái từ 82 đến 95%, trong khi ở điều kiện sản xuất bình thường tỷ lệ cá cái chỉ khoảng 40%.
Cơ sở nghiên cứu hiện lưu giữ hàng trăm cá đực đặc biệt thuộc thế hệ thứ hai. Quy trình sạch sản xuất cá rô đồng thịt toàn cái có thể đưa được vào thực tiễn.
Tỷ lệ cái chưa đạt được 100% có thể là vì sự hình thành tuyến sinh dục của cá rô, ngoài các nhiễm sắc thể sinh dục, còn chịu ảnh hưởng của các yếu tố môi trường, trong đó có nhiệt độ ươm.
Có thể bạn quan tâm
Hiện nay, phong trào nuôi cá rô đồng ở ĐBSCL phát triển khá mạnh, cá rô đồng có chất lượng thịt cao nên bán rất có giá và đem lại hiệu quả kinh tế cao hơn nhiều so với nuôi các loại cá khác.
Cá rô đồng Anabas testudineus phân bố ở các nước Nam Á và Đông Nam Á. Cá rô thường sống trong kinh rạch, đầm lầy, các ao tù. Cá có cơ quan hô hấp phụ, có thể sống một thời gian dài trên cạn, sống được vùng nước phèn pH = 4, thịt ngon là một loài cá nước ngọt có giá trị kinh tế cao.
Hai loài cá này nuôi trong mương khóm là loại cá chịu được hàm lượng pH thấp, cá ăn thức ăn tự nhiên và các loại rau, lá non, bèo tấm, bèo dâu, các loại bột, thức ăn tổng hợp... Cá có khả năng chịu được với sự thay đổi bất lợi của môi trường.
Cá rô đồng nuôi theo hướng công nghiệp là một mô hình được nhiều hộ gia đình thuộc khu vực ĐBSCL nói chung và TP. Cần Thơ nói riêng áp dụng. Vì loại hình vật nuôi này thường mang lại nguồn lợi nhuận khá cao và rủi ro về dịch bệnh không lớn. Nếu người nuôi am tường về con giống, áp dụng tốt kỹ thuật nuôi cũng như quy luật cung cầu cá thịt.
I. TỔNG QUAN VỀ ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC CÁ RÔ ĐỒNG Cá Rô đồng (Anabas testudineus Bloch, 1792) là loài cá sống trong môi trường nước ngọt ở vùng nhiệt đới. Cá hiện diện trong các thủy vực như ao đìa, đầm lầy, mương vườn và ruộng lúa ở Thái Lan, Campuchia, Lào và Việt Nam (Khoa và Hương, 1993; Rainboth, 1996; Long và ctv, 1998; Khánh, 1999). Khả năng thích nghi với môi trường sống đối với cá rô đồng rất tốt, đặc biệt cá có thể hô hấp bằng khí trời nhờ cơ quan hô hấp phụ, nên có thể tồn tại và phát triển trong điều kiện môi trường bất lợi ở ngoài tự nhiên (Khoa và Hương, 1993).