Nhân Giống Đệ Nhất Đặc Sản Biển Diện Kiến Song Chuột

Sở dĩ “chết danh” với cái tên khá kỳ cục: song chuột bởi loài cá này có cái đầu khi nhìn nghiêng rất giống mặt chuột. Tại thị trường Hồng Kông giá cao nhất (thời kỳ chỉ mới có cá tự nhiên 1999-2000) được bán 110-120 USD/kg.
Cá song chuột
Khi Indonesia chủ động được cá giống và phát triển nuôi, giá cá song chuột có giảm đi nhưng vẫn đứng ở mức cao từ 60-90USD/kg. Tại thị trường trong nước, cá song chuột không những là loài cá làm thực phẩm có giá trị đặc biệt cao (khoảng 1-1,2 triệu đồng/kg) mà còn được rất ưa chuộng để làm cảnh.
Do vây bên, vây lưng xòe to ra như cái nan quạt, cá song chuột đẹp một cách hào nhoáng với nhiều chấm đen, chấm trắng mềm mại điểm xuyết trên thân. Thêm một lý do nữa để cho song chuột được giới chơi cá cảnh ưa chuộng là bởi nó chậm lớn, rất phù hợp nuôi trong bể kính.
Các nước Ả Rập rất ưa thích loại cá này nên 60% cá giống của Indonesia xuất bán ra nước ngoài là làm cá cảnh và chủ yếu xuất đi các nước Ả Rập với giá cá hương (3cm) từ 2,0-2,5USD/con.
Trên thế giới đến tận năm 2010 mới chỉ có Indonesia chủ động sản xuất giống cá song chuột trên qui mô lớn nhờ sự hỗ trợ về kỹ thuật và tài chính của Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA). Năm 1999 lần đầu tiên Indonesia cho sinh sản nhân tạo cá song chuột thành công.
Sau 3 năm tiếp tục nghiên cứu, năm 2002, Indonesia đã sản xuất 617.800 con với tỷ lệ sống 0,1-0,2%. Cuối năm 2003, công nghệ sản xuất giống cá song chuột của Indonesia đã khá ổn định: Tỷ lệ sống dao động từ 3- 20%, có mẻ đạt tới 40% cá 40 ngày tuổi. Tiếp theo Indonesia là Malaysia và Australia đã thành công trong việc nhân giống song chuột.
Về nuôi thương phẩm, trên thế giới mới có công bố kết quả thí nghiệm nuôi đến khối lượng 234g/con (chưa đạt cá thương phẩm), chưa có công trình nghiên cứu nào công bố về nuôi đến cỡ cá thương phẩm (400 g/con).
Đến ngay cả Trung tâm Phát triển nghề cá Đông Nam Á và NACA xuất bản cuốn “Sổ tay kỹ thuật nuôi cá song chuột” cũng giới thiệu sơ lược và chưa có chỉ tiêu cụ thể... Như vậy, sau hơn 10 năm nghiên cứu, chỉ có Indonesia đã thành công trong sản xuất giống và nuôi cá song chuột trên qui mô hàng hóa.
Tuy nhiên, Indonesia vẫn giữ bí mật về công nghệ nuôi thương phẩm. Với một số nước khác như Thái Lan, Australia đã có những nghiên cứu thành công ban đầu về sản xuất giống nhưng công nghệ vẫn chưa ổn định.
Tại Việt Nam, Viện nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I hiện là đơn vị duy nhất có công nghệ sản xuất giống và nuôi cá song chuột với dự án của Nguyễn Đức Tuấn "Hoàn thiện quy trình công nghệ sản xuất giống và nuôi thương phẩm cá song chuột”.
Thời gian đầu, các thí nghiệm chỉ đạt tỷ lệ sống dao động từ 0,2-7,5%, nhiều đợt không thu được cá hương, tỷ lệ sống bằng không, cá bột yếu, chết ngay sau 2 ngày tuổi. Dần dà với những nghiên cứu chuyên sâu hơn, chúng ta đã khắc phục được các hạn chế trên, sản xuất được tới 14-15 vạn con giống. Như vậy chỉ trong một thời gian ngắn, Việt Nam là nước thứ 2 sau Indonesia thành công về sinh sản nhân tạo cá song chuột trên qui mô khá lớn.
Tuy thế, việc nghiên cứu xây dựng quy trình nuôi thương phẩm cá song chuột hiện nay mới thu được những kết quả bước đầu. Trong các thí nghiệm, cá giống (5-10g) được nuôi giữ trên bể cho đến khi đạt trọng lượng trung bình từ 23-25 g có thời gian 5,5 tháng (vì thời gian nuôi trùng vào những tháng mùa đông ở miền Bắc nên cá chậm lớn).
Dịch bệnh giai đoạn này thường xảy ra làm giảm tỷ lệ sống, đồng thời ảnh hưởng đến tốc độ phát triển của cá nuôi thương phẩm và làm giá thành tăng cao. Cá nuôi đến trọng lượng trung bình mất thêm khoảng thời gian 16-18 tháng. Như vậy toàn bộ chu kỳ nuôi kéo dài khoảng 24-27 tháng (miền Bắc) và 20-24 tháng (miền Trung và Nam) để đạt được kích cỡ cá song chuột thương phẩm trên 500g. Tốc độ lớn của chúng quả thực chậm không ngoài dự kiến.
Tôi được anh Đỗ Xuân Hải - Phó phòng cá biển dẫn ra ao. Một công nhân đang ngồi xổm trên bờ, vừa cầm một cái que gõ luôn tay vào một cái hộp vừa quẳng đám cá mồi xuống. Mặt nước thoáng xao động. Những con cá song chuột đẹp đẽ như những ông hoàng, bà chúa diện những bộ cánh đen chấm trắng hiện ra, lờ lững một hồi rồi mới thong thả ăn mồi. Tập tính chậm rãi, đủng đỉnh của chúng khác hẳn với các loài cá ăn thịt khác.
Có thể bạn quan tâm

Do hạn hán kéo dài, không đủ nước sản xuất lúa nên vụ hè-thu năm nay, anh Lê Quang Thành, thôn Láng Me, xã Bắc Sơn (Thuận Bắc) đã chuyển đổi 9 sào ruộng lúa nước sang trồng dưa hồng xiêm.

Đầu năm đến nay, Trạm Thú y huyện Thuận Nam đã hoàn thành tiêm phòng vắcxin đợt I/2013 cho đàn gia súc, gia cầm trên địa bàn huyện. Trong đó, tiêm tụ huyết trùng cho trâu, bò 4.640 con; dê, cừu 9.470 con; heo 1.640 con và tiêm phòng dịch tả cho heo được 1.635 con.

Tổ hợp tác rau sạch thôn 4 xã Tâm Thắng đã phát triển được gần 20 ha rau sạch với sự tham gia tích cực của 10 thành viên. Trong thời gian qua, cùng với việc áp dụng các tiến bộ KHKT, các thành viên trong tổ hợp tác đã chú trọng công tác áp dụng các loại giống cây mới phù hợp với nhu cầu của thị trường. Theo đó, tính đến nay tổ hợp tác đã trồng các loại rau như: dưa leo, mướp đắng, đậu cô ve, rau cải bắp…

Nói đến mô hình chuyển đổi đất trồng mía sang trồng cây chanh ở huyện Bến Lức (Long An), phải kể đến anh Phạm Văn Nhuận ở ấp 3, xã Thạnh Hòa là người đi đầu trồng chanh ở huyện với 3,5 ha, thu hơn 1,5 tỷ đồng.

Nông dân Cà Mau đang đối mặt với vụ nuôi tôm công nghiệp (NTCN) không thành công bởi dịch bệnh đốm trắng và gan tụy cấp tiếp tục hoành hành. Chính vì thế, việc tìm giải pháp căn cơ để gỡ khó cho ngành kinh tế mũi nhọn này là việc làm cấp bách.