Trang chủ / Tin tức / Mô hình kinh tế

Nghiên Cứu, Phát Triển Các Giống Chè Xanh, Chè Ô-Long Chất Lượng Cao

Nghiên Cứu, Phát Triển Các Giống Chè Xanh, Chè Ô-Long Chất Lượng Cao
Ngày đăng: 12/02/2014

Nghiên cứu, chọn tạo các giống chè năng suất, chất lượng là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục của các nhà khoa học nhằm góp phần phục vụ tốt hơn nhu cầu thưởng thức đồ uống của người dân trong nước và xuất khẩu.

Bằng nhiều phương pháp khác nhau, nhất là phương pháp lai hữu tính, những năm gần đây, các nhà khoa học Viện Khoa học Kỹ thuật nông lâm nghiệp miền núi phía bắc (KHKTNLNMNPB) đã chọn tạo, phát triển được gần 200 giống chè tốt phù hợp cho chế biến chè đen, chè xanh và chè Ô-long.

Theo Phó Viện trưởng KHKTNLNMNPB Nguyễn Hữu La, những năm qua, nước ta dù có nhiều kết quả đáng kể trong công tác chọn tạo giống chè, nhưng phần lớn các giống chè đang sản xuất dù có ưu điểm năng suất cao nhưng chất lượng còn thấp, cho nên thương hiệu chè hảo hạng được đánh giá ở mức "khiêm tốn".

Trong khi đó, xu thế phát triển và cạnh tranh chè trên thế giới hiện nay và tương lai là sản phẩm chè xanh chất lượng cao và chè Ô-long. Trước yêu cầu đó, Viện đã tiến hành thực hiện đề tài khoa học: Nghiên cứu, chọn tạo giống chè năng suất, chất lượng phục vụ trong nước và xuất khẩu.

Ðề tài đã chọn tạo được nhiều giống chè mới phục vụ sản xuất chè đen, năng suất bình quân đạt khoảng 20 tấn/ha. Chọn tạo được bốn dòng chè triển vọng có khả năng chế biến chè xanh chất lượng cao và chè Ô-long, bảo đảm tiêu chuẩn xuất khẩu, năng suất đạt 15 tấn/ha. Bên cạnh đó, chọn được 10 giống chè có các tính trạng tốt dùng làm bố mẹ, xác lập 15 cặp lai, mỗi tổ hợp lai 300 hoa, dự kiến thu được 4.500 hoa.

Cùng với những phương pháp chọn tạo giống chè truyền thống, Viện áp dụng các phương pháp: chọn tập đoàn, lai tạo, gây đột biến và lai hữu tính. Ðể định hướng và rút ngắn thời gian chọn tạo giống mới bằng phương pháp lai tạo, các nhà khoa học tập trung đánh giá xu thế di truyền của một số tính trạng chủ chốt quyết định đến năng suất và chất lượng.

Ðáng chú ý, trong lai hữu tính, phương pháp lai trở lại hay còn gọi là lai tích lũy (đem con cái ở thế hệ sau lai trở lại với bố mẹ) rất hiệu quả đối với các chỉ tiêu phẩm chất định lượng được. Phần lớn các giống chè của Việt Nam qua đánh giá mới chỉ dừng lại theo phương pháp F1 mà chưa thực hiện các phép lai trở lại.

TS Ðỗ Văn Ngọc, Chủ nhiệm đề tài cho biết: Việt Nam có hơn 40 tỉnh, thành phố có diện tích trồng chè, trong đó các tỉnh Lâm Ðồng, Yên Bái, Thái Nguyên và Phú Thọ có diện tích chè khá lớn, bình quân từ 14 đến gần 30 nghìn ha. Ðể kịp thời chọn ra nhiều giống chè có chất lượng và chống chịu tốt, các nhà khoa học của Viện tập trung nghiên cứu, tìm hiểu đặc điểm sinh sản của cây chè trên các vùng sinh thái khác nhau nhằm xây dựng cơ sở khoa học và thực tiễn cho công tác lai hữu tính.

Ðồng thời, đánh giá các đặc điểm hình thái, năng suất, chất lượng của các giống chè trên thế giới và Việt Nam; xác định mối quan hệ các tính trạng kiểu hình với di truyền (kiểu gien) của các giống chè làm cơ sở chọn cặp bố mẹ trong lai hữu tính.

Bằng phương pháp lai hữu tính, các nhà khoa học của viện đã chọn được nhiều giống chè phù hợp để chế biến chè xanh và chè Ô-long như: PH8 và PH9. Ngoài những giống trên, các nhà khoa học còn chọn được nhiều dòng chè có triển vọng như: dòng số 10, số 12, số 13, 14, 15... và ba nghìn cá thể F1 thu được từ các tổ hợp lai giữa các giống có chất lượng với giống năng suất cao và chống chịu tốt. Ðáng chú ý, đề tài này đánh giá được một số cấu tạo hình thái, mầu sắc của lá, thân, cành, búp... của 23 giống chè như: Bát Tiên, Long Vân, Kim Tuyên, Phúc Vân Tiên...

Tính riêng tại tỉnh Phú Thọ, chè chất lượng cao do Viện KHKTNLNMNPB nghiên cứu, chọn tạo chiếm hơn 60% tổng diện tích trồng chè (khoảng 8.000 ha). Ðồng thời, Viện cũng triển khai dự án phát triển chè Ô-long tại thị xã Phú Thọ với diện tích 50 ha. Kết quả cho thấy, phần lớn các giống chè nghiên cứu đều có búp xanh vàng sáng đến xanh vàng, điều này có lợi cho chất lượng sản phẩm.

TS Ðỗ Văn Ngọc khẳng định, để có bộ giống tốt phục vụ chế biến chè đen, chè xanh và chè Ô-long, chọn giống theo phương pháp lai hữu tính là hiệu quả nhất. TS Ðỗ Văn Ngọc cho biết thêm, để đẩy nhanh tiến độ chọn tạo giống chè mới cần áp dụng kỹ thuật "vườn sản xuất gốc" mà một số nước trên thế giới đã và đang đạt hiệu quả cao.


Có thể bạn quan tâm

Cảnh Báo Nạn Ô Nhiễm Môi Trường Từ Rác Thải Thuốc Bảo Vệ Thực Vật Cảnh Báo Nạn Ô Nhiễm Môi Trường Từ Rác Thải Thuốc Bảo Vệ Thực Vật

Theo Chi cục Bảo vệ thực vật tỉnh, mỗi năm nông dân Bạc Liêu thải ra môi trường từ 90 - 120 tấn rác thải là các loại bao bì thuốc bảo vệ thực vật (BVTV). Trong khi đó, việc thu gom, xử lý loại rác thải độc hại này theo quy trình đảm bảo an toàn gần như không có!

30/07/2014
Những Mô Hình Nuôi Tôm Siêu Thâm Canh Đảm Bảo Tính Bền Vững Và Hiệu Quả Kinh Tế Cao Những Mô Hình Nuôi Tôm Siêu Thâm Canh Đảm Bảo Tính Bền Vững Và Hiệu Quả Kinh Tế Cao

Để phát huy thế mạnh trong nuôi trồng thủy sản và nhân rộng những mô hình sản xuất bền vững cho giá trị kinh tế cao, Bí thư Tỉnh ủy - Võ Văn Dũng và các đồng chí trong Ban Thường vụ Tỉnh ủy vừa có chuyến khảo sát thực tế tại các doanh nghiệp nuôi trồng thủy sản của tỉnh.

30/07/2014
Hoài Ân Tập Trung Đẩy Nhanh Tiến Độ Xây Dựng Nông Thôn Mới Hoài Ân Tập Trung Đẩy Nhanh Tiến Độ Xây Dựng Nông Thôn Mới

Sau hơn 3 năm thực hiện Chương trình xây dựng nông thôn mới (XDNTM), bộ mặt nông thôn Hoài Ân đã có nhiều thay đổi tích cực; đời sống vật chất, tinh thần của người dân ngày càng được cải thiện. Tuy nhiên, để đảm bảo hoàn thành các tiêu chí NTM, huyện Hoài Ân vẫn còn nhiều việc phải làm.

30/07/2014
Góp Phần Thực Hiện Tiêu Chí Môi Trường Góp Phần Thực Hiện Tiêu Chí Môi Trường

Xã Tam Quan Nam là địa phương XDNTM đến năm 2020, song đến cuối năm 2013 xã đã đạt được 11/19 tiêu chí, đặc biệt trong đó có tiêu chí số 17 về môi trường. Để đạt được tiêu chí này, có vai trò tích cực của Hội Nông dân xã và hội viên nông dân (HVND) toàn xã.

30/07/2014
Thị Xã Dĩ An Lập Lại Trật Tự Trên Lĩnh Vực Nuôi Chim Yến Thị Xã Dĩ An Lập Lại Trật Tự Trên Lĩnh Vực Nuôi Chim Yến

Sau khi có danh sách các cơ sở, hộ gia đình, cá nhân nuôi chim yến, Phòng Kinh tế có trách nhiệm chủ trì phối hợp cùng các Phòng Tài nguyên - Môi trường, Quản lý đô thị, Trạm Thú y và UBND các phường lên kế hoạch tổ chức kiểm tra, đề xuất các biện pháp xử lý đối với ngành nghề này.

30/07/2014