Gia nhập TPP, ngành thủy sản được gì
TPP tạo ra nhiều cơ hội cho doanh nghiệp thủy sản, tuy nhiên vẫn còn lắm thách thức, đặc biệt với ngành khai thác, chế biến thủy sản.
Khó trên “sân khách” Ngành Thủy sản Việt Nam từ xưa đến nay là một trong những ngành đi đầu vươn ra nước ngoài, xuất khẩu thủy sản ngay khi đất nước đang bị cấm vận.
Qua tìm hiểu, chúng tôi được biết, ưu thế, thuận lợi lúc bấy giờ chính là giá nhân công rẻ.
Tuy nhiên, kể từ khi hội nhập, ngành thủy sản Việt Nam cũng lắm thăng trầm, bởi sức cạnh tranh của chúng ta còn yếu.
Ông Trần Văn Lĩnh, Chủ tịch HĐQT Công ty CP Thủy sản Thuận Phước khẳng định, TPP không mang lợi ích nhiều cho ngành thủy sản Việt Nam.
Theo lý giải của ông Lĩnh, ngành chế biến thủy sản Việt Nam xuất khẩu vào Hoa Kỳ khá lớn, do mức thuế vừa phải nên việc thuế quan không là vấn đề rào cản.
Bên cạnh đó, một số nước có thuế xuất khẩu khá thấp như Canada: 0%, Nhật Bản đối với hàng thô khoảng 2%, tinh chế chỉ 3 - 4%...
Nhưng điều quan tâm đối với ngành thủy sản Việt Nam nói chung, Đà Nẵng nói riêng chính là khả năng cạnh tranh.
“Thủy sản đánh bắt của Việt Nam rất ít, chỉ chiếm khoảng 15% trong kim ngạch xuất khẩu.
Nguyên nhân do nguồn hải sản cạn kiệt.
Vì vậy ngành xuất khẩu thủy sản của ta chủ yếu là nuôi trồng với hai mặt hàng chính là cá và tôm.
Trước đây, lĩnh vực này thuận lợi, bởi là nước nông nghiệp nhiệt đới, lao động rẻ.
Tuy nhiên, ngày nay, khi cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật trên thế giới bùng nổ, các quốc gia đã tìm ra con giống thích nghi với điều kiện của họ; họ áp dụng công nghệ tiên tiến trong việc nuôi trồng và chế biến nên đã cạnh tranh với mình”, ông Lĩnh nói.
Không chỉ có vậy, theo ông Lĩnh, hiện nay Việt Nam nhập 100% tôm giống của nước ngoài.
Chính những con tôm không được các nhà khoa học trong nước tạo ra nên không thích nghi được với thời tiết trong nước, năng suất vì thế không cao.
Việc quản lý chất lượng kháng sinh cũng kém, ảnh hưởng nghiêm trọng đến quá trình nuôi trồng.
“Trong bất cứ cuộc chơi nào thì người mạnh sẽ thắng.
Sức cạnh tranh mạnh, thể hiện 3 yếu tố: giá thành thấp, chất lượng tốt, sản lượng ổn định.
Trong khi giá thành sản phẩm của ta cao hơn các nước từ 10 - 30%, chất lượng chưa được chú trọng, số lượng bấp bênh.
Dù công nghệ chế biến có cao bao nhiêu thì không thể chế biến một con tôm hư thành con tôm ngon được.
Ngành thủy sản không trông chờ lắm vào TPP”, ông Lĩnh cho biết.
Thách thức trên “sân nhà” Tuy nhiên, khi đã vào TPP thì thuế quan của Việt Nam cũng xóa bỏ cho các nước.
Điều này cũng là vấn đề thách thức lớn đối với ngành chế biến thủy sản cũng như toàn ngành thủy sản trong nước.
Theo tìm hiểu của chúng tôi, hiện nay thuế nhập khẩu mặt hàng thủy sản của Việt Nam áp dụng từ 10 - 30% đối với các nước.
Mặc dù đã chịu thuế lớn, song một số mặt hàng thủy sản của một số nước khi vào Việt Nam vẫn rẻ hơn hàng trong nước.
Ông Trần Văn Lĩnh đưa ra ví dụ, cá cu là loại cá ngon ở Đà Nẵng, giá bán sỉ khoảng 100.000 đồng/kg, nhưng nhập khẩu từ Nhật về chỉ bán khoảng 50.000 đồng/kg (đã tính thuế nhập khẩu).
Ngoài ra, có nhiều loại cá của Nhật khi nhập sang Việt Nam, giá chỉ bằng giá những con cá nục bình thường.
Lý giải nguyên nhân, ông Lĩnh cho rằng, do ngành nông nghiệp khai thác của ta đánh bắt nhỏ lẻ, chế biến kém, độ tươi của cá không có.
Trong khi nhiều nước, đặc biệt Nhật Bản khai thác bằng công nghệ cao, bảo quản tốt.
“Điều đáng lo ngại là nếu sau khi mở cửa toàn diện thì liệu tàu nước ngoài có cập cảng Việt Nam để bán cá tươi.
Nếu như vậy, thì ngư dân của ta đứng trước vô vàn khó khăn, thách thức”, ông Lĩnh trăn trở.
Để giải quyết vấn đề đặc biệt quan trọng khi tham gia vào TPP, việc đầu tiên mà ngành thủy sản cần làm, theo ông Nguyễn Đỗ Tám, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thành phố, là phải nâng cao chất lượng khai thác, đánh bắt, đặc biệt là khâu bảo quản.
“Chúng ta đang phí phạm nguồn hải sản.
Những nước đánh bắt công nghệ tiên tiến, bắt hai con về bán nguyên hai con.
Còn ta, hai con về còn một con, cao lắm một con rưỡi.
Để bù lại bằng người ta thì phải đánh đến ba con”, ông Tám nói.
Vì vậy, theo ông Tám, ngành thủy sản Đà Nẵng đang vận động, tuyên truyền bà con ngư dân phải đầu tư, nâng cấp hệ thống cách đông nhằm nâng cao chất lượng hải sản trong quá trình đánh bắt.
Ông Lương Văn Long, Giám đốc Hợp tác xã dịch vụ hậu cần nghề cá Sao Đỏ cho biết, để nâng cao khả năng cạnh tranh trên trường quốc tế, ngư dân chúng ta cần phải áp dụng công nghệ CAS (Cells Alive System), nghĩa là hệ thống tế bào còn sống - công nghệ đông lạnh nhanh với chức năng CAS.
Theo đó, CAS khi kết hợp với thiết bị làm lạnh nhanh sẽ có khả năng làm đông lạnh hỗn hợp nước và chất màu một cách đồng đều, có thể giữ sản phẩm lên đến 10 năm.
Có như vậy, chất lượng con cá được đảm bảo tươi ngon...
Trước thách thức và cơ hội đó, nhiều ngư dân trẻ Đà Nẵng cũng đã chuẩn bị cho mình mọi thứ để tham gia TPP.
Điển hình như ngư dân Lê Văn Sang, Chủ tịch HĐQT HTX Dịch vụ hậu cần nghề cá Hải Nhi, ngư dân Trần Văn Mười (phường Mân Thái, quận Sơn Trà)...
là những ngư dân trẻ, học hỏi, áp dụng tốt khoa học công nghệ để góp phần đưa ngành hải sản Việt Nam cạnh tranh với các quốc gia trên thế giới...
Có thể bạn quan tâm
Nhận thấy địa bàn xã Bình Tân đất rộng, nhà thưa, ruộng lúa mênh mông… rất thuận lợi để phát triển đàn bò, năm 2012, anh quyết định đầu tư chuồng trại, mua 5 con bò giống (bò ta) về nuôi. Qua thời gian nuôi, nhận thấy hiệu quả mang lại từ giống bò này không cao do chúng vừa nhỏ con, chậm lớn, thời gian phối giống lại kéo dài (17 - 18 tháng tuổi)… anh đành chấp nhận bán chịu lỗ.
Chăn nuôi heo trên đệm lót sinh học Balasa N01 ở tỉnh đã được nông dân quan tâm và ứng dụng nhiều bởi lợi ích đem lại của nó. Việc sử dụng đệm lót sinh học cho chăn nuôi heo đã góp phần làm giảm thải tối đa nguy cơ ô nhiễm và hiệu quả tốt đối với môi trường nhờ hệ vi sinh vật có lợi giúp phân hủy gần như triệt để chất thải. Từ đó làm giảm mùi hôi, bảo đảm môi trường sống có lợi cho vật nuôi và an toàn cho sức khỏe con người.
Tôm nuôi VietGAP nhanh lớn (do mật độ vừa phải), màu sắc đẹp, tỷ lệ sống cao, không bị bệnh, năng suất đạt 15 tấn/ha/vụ. Ngoài ra, tôm nuôi VietGAP, có giá bán cao hơn tôm nuôi thường 12.000 - 15.000 đồng/kg vì hạn chế hoặc không dùng kháng sinh, do vậy đạt tiêu chuẩn an toàn vệ sinh thực phẩm và xuất khẩu dễ dàng.
Tuy nhiên, nhiều nông dân cho rằng, giá cá bổi hiện đang xuống thấp so với năm trước. Vì vậy, nhân rộng mô hình nuôi phải có giải pháp về đầu ra ổn định, cũng như có chính sách hỗ trợ vốn. Hướng đi này không chỉ tạo ra nguồn thu nhập kinh tế gia đình, tạo việc làm cho lao động nông thôn mà còn khôi phục nguồn lợi cá đồng.
Do thị trường hay biến động và chi phí ngày một tăng cao, vì thế anh Đường tìm tòi, áp dụng cách nuôi trăn trên ĐLSH và cho kết quả khả quan. Anh Đường cho biết: “Tôi nuôi trăn gần 20 năm, mặc dù có nhiều kinh nghiệm trong việc chăn nuôi, nhưng thấy loài này vẫn thường bị mắc một số bệnh như đẹn miệng, sưng phổi, hô hấp… dẫn đến lợi nhuận không cao và tốn nhiều thời gian chăm sóc nên không nuôi được với số lượng lớn”.