Chế Biến Chè Sạch Quy Mô Hộ Gia Đình

"Chúng tôi tự hào là những người trồng chè có tiếng trong vùng, nhưng mấy năm gần đây, do yêu cầu của thị trường về sản phẩm chè sạch, chè có phẩm cấp cao, việc chế biến thủ công truyền thống đã không thể đáp ứng nổi yêu cầu này nên giá bán ra thị trường thấp." Một nông dân cho biết.
Năm 2007, Cục Chế biến Nông lâm sản và Nghề muối kết hợp với tỉnh Phú Thọ triển khai xây dựng mô hình chế biến chè sạch quy mô hộ tại Hương Xạ, với mục tiêu hỗ trợ thiết bị chế biến chè và chuyển giao quy trình công nghệ sản xuất chè nguyên liệu theo tiêu chuẩn chè an toàn và chế biến chè sạch bằng dây chuyền thiết bị công nghệ. Đối tượng là các hộ nghèo trồng chè trong xã và các hộ trồng chè khác có nhu cầu chế biến chè búp tươi.
Chè được chế biến bằng một hệ thống máy đồng bộ, đúng tiêu chuẩn ngành chè, không dùng phụ gia và hoá chất. Để sản phẩm đảm bảo sạch, những hộ trồng chè đều phải sản xuất theo quy trình sạch. Có nghĩa là phải sạch từ đất, nước, giống, sử dụng phân bón và thuốc BVTV hợp lý, đảm bảo đủ thời gian cách ly quy định và dùng những loại thuốc BVTV có trong danh mục. Dù khó nhưng người dân rất phấn khởi thực hiện. Họ nhận thức rằng đây chính là con đường duy nhất và bền vững để cây chè mang lại thu nhập cao cho người nông dân.
Sau một năm thực hiện, kết quả đạt được đã làm cho người nông dân vui khôn xiết: 1kg chè sạch khô sau khi sao, vò bằng máy tính ra chỉ hết có 15.550 đồng, trong khi đó nếu sấy thủ công thì cũng phải chi hết 14.050 đồng. Tuy chi phí cho sấy chè bằng máy cao hơn sấy thủ công 1.500 đồng/kg, nhưng bù lại, giá bán của chè sấy bằng máy được từ 30-35 ngàn đồng/kg so với chè sấy thủ công chỉ 20-25 ngàn đồng/kg, cao hơn 10 ngàn đồng. Đặc biệt là sấy chè sạch bằng máy, sản phẩm ra lò đến đâu đều bán hết đến đấy. Như vậy, về hiệu quả kinh tế, sấy chè bằng máy cao hơn nhiều so với sấy thủ công.
Nếu mô hình này được nhân rộng, sẽ góp phần hình thành nên những vùng sản xuất chè sạch chuyên canh, với chất lượng cao và ổn định, đó cũng là góp phần vào xây dựng một nền nông nghiệp sạch, bền vững, thị trường mang lại thu nhập ổn định cho người nông dân. Tuy nhiên, có một điều người dân thấy băn khoăn là, giá trị chiếc mấy sấy còn đắt so với thu nhập của người dân hiện nay. Chính vì vậy, nhà nước cần có một chính sách hỗ trợ người dân mua máy sấy.
Có thể bạn quan tâm

Thay đổi hoàn toàn thói quen, tập quán cũ của người nông dân trong canh tác cà phê; Giúp bà con làm quen với phong cách bón phân mới, phun thuốc diệt sâu bệnh mới; Giúp nông dân tạo thói quen ghi nhật kí đồng ruộng, kiểm soát được chi phí đầu vào và tính toán lợi nhuận...

Tính đến nay, tổng diện tích mía tại khu vực phía Đông tỉnh đạt 24.000 ha, tăng gấp 10 lần so với thời điểm sau cuộc khủng hoảng mía đường năm 1999 - 2000, mía trở thành cây trồng chủ lực trong cơ cấu cây trồng của các địa phương trong khu vực.

Xây dựng quy trình thực hành sản xuất theo 4 tiêu chí này, sản phẩm rau của bà con nông dân xã Ninh Đông - Thị xã Ninh Hòa đã được Trung tâm Chất lượng nông lâm thủy sản vùng 3 thuộc Cục quản lý Chất lượng nông lâm thủy sản cấp chứng nhận VietGAP.

Theo số liệu tổng hợp của Chi cục Trồng trọt - Bảo vệ thực vật (Trung tâm Bảo vệ Thực vật, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn), hồ tiêu toàn tỉnh Bình Phước hiện có 11.600 ha, tăng hơn 1.000 ha so năm 2013. Tuy nhiên diện tích tiêu chết vì bệnh đang tăng nhanh. Sâu bệnh gây hại chủ yếu trên hồ tiêu là tuyến trùng với 976 ha, rệp sáp là 393 ha.

Niên vụ 2014 - 2015, Tân Châu (Tây Ninh) có trên 6.800 ha mía. Theo Trạm bảo vệ thực vật huyện, diện tích cây mía bị sâu đục thân gây hại lên đến gần 1.000 ha, trong đó xã Tân Hưng có trên 240 ha, Tân Thành gần 200 ha, Suối Dây trên 160 ha… với tỷ lệ nhiễm từ 5 - 15%.