Tìm điểm tựa cho đầu ra hạt gạo
Liên kết sản xuất lớn là xu thế tất yếu !
Mới đây, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án phát triển thương hiệu gạo Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030. Mục tiêu chung của đề án trên là nâng cao giá trị gia tăng, thị phần và sức cạnh tranh của sản phẩm gạo Việt Nam trên thị trường thế giới.
Theo đó, phấn đấu đến năm 2020, hình ảnh gạo Việt Nam được quảng bá, giới thiệu rộng rãi trong nước và đến ít nhất 20 thị trường xuất khẩu; thương hiệu gạo quốc gia được bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ dưới hình thức nhãn hiệu chứng nhận tại Việt Nam và ít nhất 50 quốc gia. Đến năm 2030, các vùng sản xuất lúa gạo xuất khẩu ổn định, hiệu quả và bền vững, đưa gạo Việt Nam trở thành thương hiệu hàng đầu thế giới về chất lượng, an toàn thực phẩm...
Có thể nói, Đề án này là sự hình thành từ những nghiên cứu về thực trạng, giải pháp đóng góp ý kiến của các nhà khoa học mà Bộ NN&PTNT đã tích hợp để trình thủ tướng nhằm tìm hướng phát triển ổn định, bền vững cho cây lúa. Ngày 27-5, tại hội nghị “Cánh đồng lớn”, do Ban chỉ đạo Tây Nam bộ, Tổng hội Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tổ chức tại Cần Thơ đã nhận được nhiều ý kiến chia sẻ từ các chuyên gia nông nghiệp đến lãnh đạo trong vùng.
Các đại biểu đã chỉ ra điểm mạnh và những điểm yếu “cốt tử” của mô hình “Cánh đồng lớn” (CĐL). Song, đều khẳng định đây là mô hình phù hợp để phát triển thương hiệu gạo Việt Nam một cách khoa học và bền vững. “Trước năm 2011, nhiều mô hình kỹ thuật canh tác theo hướng tăng năng suất, giảm giá thành: “3 giảm, 3 tăng”, “1 phải, 5 giảm”.
Cùng một số mô hình kỹ thuật có khuynh hướng cải thiện thêm chất lượng: “Cánh đồng một giống”, “Cánh đồng hiện đại”, “Cánh đồng lúa chất lượng cao” do một số tỉnh xây dựng. Sau năm 2011, mô hình cánh đồng mẫu lớn bắt đầu xuất hiện ở ĐBSCL”, tiến sĩ Phạm Văn Dư, Cục phó Cục Trồng trọt nhớ lại.
“Sau 5 năm triển khai, mô hình CĐL đã và đang khẳng định được vai trò, vị trí của một phương thức sản xuất nông nghiệp tiên tiến, hiệu quả, phù hợp với định hướng tái cơ cấu ngành nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới”, ông Nguyễn Quốc Việt, Phó trưởng Ban chỉ đạo Tây Nam bộ nhận định.
Theo Ban chỉ đạo Tây Nam bộ, diện tích sản xuất CĐL năm 2011 từ 7.800ha đã gần chạm ngưỡng 300.000 trong năm 2014 (chiếm gần 1/5 diện tích trồng lúa ở ĐBSCL). Mô hình CĐL đã mang lại hiệu quả thiết thực cho nông dân khi doanh nghiệp tham gia đầu tư vào vùng nguyên liệu.
Cụ thể, một số địa phương hỗ trợ tiền chênh lệch mua lúa giống xác nhận so với lúa thường (giá hỗ trợ tùy theo tỉnh), tập huấn kỹ thuật cho nông dân định kỳ khoảng 3-4 lần/vụ; hỗ trợ 30-50% tiền đầu tư máy móc, thiết bị phục vụ sản xuất như: công cụ sạ hàng, lò sấy.
Phía doanh nghiệp hỗ trợ bán phân bón theo giá gốc, hỗ trợ chi phí vận chuyển và cho nông dân nợ 4 tháng; cung ứng giống, phân bón, thuốc BVTV với lãi suất 0%, hỗ trợ chi phí vận chuyển, sấy và lưu kho trong 30 ngày; đồng thời mua lúa với giá cao hơn thị trường từ 100-300 đồng/kg. Những hỗ trợ, liên kết đã giúp nông dân tăng thêm lợi nhuận từ 2-7 triệu đồng/ha so với sản xuất bên ngoài.
“Chậm mà chắc còn hơn phá sản”!?
Thực tế, vừa qua nhiều doanh nghiệp ở Cần Thơ đã không đủ nguồn lực để thực hiện việc thu mua lúa của nông dân trong CĐL. “Lúa hàng hóa ứ đọng trong lúc nông dân thu hoạch rộ. Nhiều nơi nông dân phải để lúa ngoài đồng cả tuần. Mùa nắng nóng, lúa bốc hơi khô ráo, giảm trọng lượng nhưng doanh nghiệp lại đến mua với giá lúa tươi”, lãnh đạo của một huyện ở thành phố Cần Thơ bức xúc nói.
Thực trạng này đã diễn ra trên địa bàn nhiều năm qua nhưng đến nay chưa được khắc phục. Một số doanh nghiệp đã ký kết hợp đồng thu mua với nông dân, nhưng thiếu phương tiện thu mua, nông dân phải “treo lúa” ngoài đồng, gây thiệt hại không nhỏ. Nhiều địa phương phải huy động ghe chở lúa đến bán cho doanh nghiệp để giải nguy!?
Thực tế quá trình liên kết bao tiêu lúa CĐL giữa doanh nghiệp và nông dân đang phát sinh “bẻ kèo”. Vụ lúa Đông xuân 2014-2015, tại Ngã Năm có 4.000ha ký kết bao tiêu giữa doanh nghiệp và nông dân. “Do giá lúa tăng cao vượt giá hợp đồng từ 600 đến hơn 1.000 đồng/kg, tỷ lệ vỡ hợp đồng lên đến gần 50%.
Nguyên nhân đổ vỡ: quan hệ nông dân - doanh nghiệp mới xác lập, doanh nghiệp chưa đủ thời gian tiếp cận nông dân; doanh nghiệp chưa uyển chuyển trong việc điều chỉnh giá ở mức thỏa mãn tâm lý nông dân; việc tổ chức thu mua còn nhiều sơ sót, làm phiền hà nông dân”, kỹ sư Hồ Quang Cua, Phó Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Sóc Trăng, nhận định.
Tiến sĩ Phạm Văn Dư, Cục phó Cục Trồng trọt đã chỉ ra những điểm yếu hiện nay của mô hình CĐL: “Đa số doanh nghiệp xuất khẩu, tiêu thụ lúa gạo trong nước vào cuộc còn khá chậm, trong khi CĐL chính là điểm xuất phát cho việc xây dựng vùng nguyên liệu lúa xuất khẩu trong tương lai. Một số nông dân không tuân thủ đúng quy trình canh tác được hướng dẫn, chưa áp dụng sạ hàng, chưa thường xuyên ghi chép nhật ký sản xuất. Về nhận thức và quan điểm xây dựng mô hình CĐL vẫn chưa đồng bộ, dẫn đến việc đầu tư, tổ chức không được quan tâm đúng mức”.
Một chuyên gia nông nghiệp nhận định: Gần như 100% nông dân bán lúa tươi tại ruộng, đây là điều rất tệ. Vì bán tại ruộng dễ bị ép giá, khó mặc cả. Chính vì vậy mà chỉ có thể gọi mô hình CĐL hiện nay là trong quá trình hơn “phôi thai một tí”. Cái lợi của mô hình CĐL dễ nhận ra: Giải quyết bài toán lợi nhuận, nông dân và doanh nghiệp đều được lợi.
Không gian và điều kiện sản xuất thuận lợi cho việc áp dụng các mô hình sản xuất tiên tiến, cơ giới hóa, giải quyết được vấn đề sau thu hoạch, giúp thực hành nông nghiệp tốt, các tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm. “Mô hình chuỗi giá trị gạo, gắn nhà máy chế biến với tổ chức cánh đồng mẫu lớn, muốn thành công cần phải có lộ trình, từng bước, từ thấp đến cao, không nóng vội, không theo phong trào, mà phải tỉnh táo dựa vào thực lực, nội tại của từng doanh nghiệp (nhân lực, vốn), có những bước đi thích hợp.
Phân kỳ đầu tư không đúng, chi phí nội tại quá lớn, đánh giá không đúng tình hình, dẫn đến lỗ kéo dài, không có nguồn bù lỗ, mô hình sẽ bị phá sản. Mô hình CĐL chỉ là phương thức sản xuất theo chuỗi giá trị. Đã có hiện tượng phong trào CĐL, nhiều nơi thực hiện nhưng đầu ra thì chưa có địa chỉ cụ thể. Thất bại của các tập đoàn, hợp tác xã hay kinh tế trang trại một thời vẫn còn là một bài học đáng suy gẫm cho CĐL ngày nay và ngày mai”, ông Trần Hữu Hiệp, Vụ trưởng Vụ Kinh tế (Ban Chỉ đạo Tây Nam bộ) đã đưa ra một khuyến nghị đáng suy nghĩ trong bối cảnh hiện nay.
Có thể bạn quan tâm
Ngày 5.11, Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP) cho biết xuất khẩu thủy sản năm 2014 sẽ đạt hơn 7 tỉ USD, cao hơn so với kế hoạch dự kiến đầu năm.
Cụ thể, trứng gà, trứng vịt của Công ty Ba Huân, Vĩnh Thành Đạt, Liên hiệp HTX TP.HCM giảm 1.000 đồng/hộp (10 trứng), lần lượt còn 24.000 và 32.000 đồng/hộp. Trứng gà Công ty Thanh Niên Xung Phong cũng giảm 1.000 đồng, còn 24.000 đồng/hộp.
Tuy nhiên miền Trung có tỷ lệ diện tích nuôi thâm canh và bán thâm canh lớn nhất, chủ yếu là nuôi tôm chân trắng. Về cơ cấu tỷ lệ nuôi tôm chân trắng và tôm sú, đang có sự chuyển dịch đối với diện tích nuôi với tôm chân trắng chiếm tỷ lệ 12,5% và tôm sú 87,5%; trong khi đó tỷ lệ về sản lượng tôm chân trắng và tôm sú tương ứng là 56,9% và 43,1%. Điều đó cho thấy tôm chân trắng đóng góp rất lớn cho sự gia tăng sản lượng tôm nuôi của cả nước.
Vẫn chưa có địa phương nào phê duyệt được danh sách ngư dân đủ điều kiện vay vốn đầu tư đóng tàu vỏ sắt nên dòng vốn này vẫn "chưa chảy" - ông Phạm Ngọc Tuấn, Phó cục trưởng Cục Khai thác và bảo vệ nguồn lợi thủy sản (Bộ NN-PTNT) - thông tin như vậy tại buổi tọa đàm chủ đề: Để ngư dân vững vàng vươn khơi, do Cổng thông tin điện tử Chính phủ tổ chức ngày 4.11 tại Hà Nội.
Ông Nguyễn Huy Điền, Phó Tổng Cục trưởng Tổng cục Thủy sản cho biết: Tính đến nay, cả nước đã thả nuôi được 685.000 ha tôm nước lợ (đạt 102,2% kế hoạch), trong đó diện tích nuôi tôm sú 590.000 ha, tôm thẻ chân trắng 95.000 ha, sản lượng thu hoạch 660.000 tấn (đạt 120% kế hoạch và tăng 20,4% so năm 2013). Giá trị kim ngạch XK 9 tháng đầu năm ước đạt 6,48 tỷ USD, trong đó XK tôm đạt 2,93 tỷ USD.