Thức ăn xanh cho chăn nuôi cấp thiết!

Tại hội nghị Tái cơ cấu ngành trồng trọt và sơ kết tình hình phát triển cây làm thức ăn xanh cho chăn nuôi gia súc do Bộ NN-PTNT tổ chức hôm qua (22/7), thông tin về nhu cầu thức ăn cho chăn nuôi bò sữa đang đặt ra nhiều vấn đề cần phải bàn.
Theo ông Trần Công Chiến, TGĐ Cty Sữa Mộc Châu, hiện Cty này đang được Nhà nước giao gần 960 ha đất nông nghiệp để trồng cỏ cho đàn bò sữa.
Tuy nhiên do SX-KD liên tục có lãi, tổng đàn bò hiện đã tăng lên tới trên 17 nghìn con, trung bình mỗi ha cỏ đang phải gánh khoảng 18 con bò sữa nên diện tích này từ lâu đã không còn đáp ứng được nhu cầu. Với tốc độ tăng đàn khoảng 14%/năm, hiện quỹ đất trồng cỏ phục vụ cho đàn bò của Cty đã cạn kiệt.
Trước tình hình đó, từ năm 2013 đến nay, Cty đang phải tận dụng nguồn thức ăn bằng cách mua ngô non của người dân tại các vùng vệ tinh. Mặc dù chất lượng ngô non không thể thay thế bằng các loại cỏ chuyên dụng, tuy nhiên năm 2014, Cty đã phải mua tới trên 70 nghìn tấn cây ngô non của dân, năm 2015 dự kiến sẽ phải tăng lên mức 100 nghìn tấn và dự báo sẽ phải tiếp tục tăng.
Để bù đắp cho nguồn dinh dưỡng thiếu hụt do nguồn thức ăn không đủ đáp ứng, hiện trung bình mỗi năm, Cty này đang phải NK khoảng trên 5.000 tấn cỏ Alfalfa với giá từ 400 – 450 USD/tấn do nguồn cỏ này hiện chưa SX được tại Việt Nam.
Ông Chiến cho biết do phải NK cỏ Alfalfa quá tốn kém nên Cty cũng đã từng NK giống cỏ này về trồng thử tại Sơn La, tuy nhiên do không có điều kiện nghiên cứu bài bản nên kết quả không như mong đợi. Trong khi đó đối với nguồn thức ăn thô tại chỗ, việc SX và dự trữ cũng không hề thuận lợi.
Theo đó, mặc dù mùa hè tại Sơn La mưa nhiều, cỏ và ngô phát triển rất tốt, nguồn thức ăn dư giả nhưng lại rất khó chế biến dự trữ do mưa nhiều, nấm mốc, rất khó phơi sấy bảo quản. Trong khi đó vào mùa đông, các loại cỏ đều phát triển rất chậm.
“Theo định hướng quy hoạch đến năm 2020, đàn bò Mộc Châu sẽ lên tới 35 nghìn con, tăng gấp đôi so với hiện nay, và sẽ cần khoảng tương đương trên 7.000 ha đất để trồng cỏ, tuy nhiên quỹ đất chuyên trồng cỏ của Cty hiện chỉ có chưa đầy 1.000 ha.
Vì vậy bên cạnh việc phải tăng diện tích đồng cỏ, cơ quan khoa học cần phải gấp rút nghiên cứu các giống cỏ mới có năng suất, chất lượng cao hơn, nếu nghiên cứu trồng được cỏ Alfalfa thì càng tốt. Bộ giống cỏ phải đa dạng, thích nghi nhiều hơn với các tiểu vùng, bởi các giống cỏ trong nước hiện năng suất, chất lượng còn rất thấp”, ông Chiến đề nghị.
Tại TP.HCM, tình hình tìm kiếm nguồn cỏ cho việc mở rộng đàn bò của Cty Sữa Vinamilk cũng đang rất khó khăn. Theo Cty này, với đàn bò hơn 104 nghìn con (trong đó khoảng 88 nghìn con trong dân và 16 nghìn con nuôi tập trung), diện tích trồng cỏ cần có phải lên tới trên 12 nghìn ha.
Mặc dù thời gian qua, Vinamilk đã có nhiều nỗ lực trong việc liên kết với các vùng vệ tinh xung quanh vùng nuôi bò sữa để ký hợp đồng trồng và thu mua cỏ, tuy nhiên hình thức này lại đang gặp rất nhiều khó khăn do đến vụ thu hoạch, nhiều đơn vị thu mua khác (thường là các đơn vị thu mua thời vụ) cũng lao vào tranh mua cỏ khiến nguồn thức ăn cho bò sữa rất khó khăn.
Đánh giá về tình hình nghiên cứu, chọn tạo các giống cỏ và phát triển nguồn cỏ phục vụ chăn nuôi ở các địa phương, nhiều ý kiến cho rằng, mặc dù hiện nay một số đơn vị của Viện Chăn nuôi cũng như một số đơn vị đã có một số giống cỏ như VA06, cỏ voi, cỏ Ghini TD58, Ruzi…, tuy nhiên nhìn chung bộ giống còn rất đơn điệu, năng suất chất lượng còn thấp. Trong khi đó các giống cỏ mới năng suất, chất lượng cao như cao lương, cỏ Alfalfa, kê… của nước ngoài lại chưa được nghiên cứu bài bản để đưa về Việt Nam SX. Các địa phương gần như ít quan tâm quy hoạch quỹ đất cho việc phát triển trồng cỏ…
Trước tình hình này, Cục Trồng trọt đề xuất: Ngay trong năm 2015, trong số diện tích đất lúa chuyển đổi khoảng 260 nghìn ha, sẽ quy hoạch khoảng 13 nghìn ha dành cho trồng cây TĂCN; đến năm 2020 nâng lên 37 nghìn ha trên tổng số 510 nghìn ha đất lúa chuyển đổi (chiếm trên 7% tổng diện tích đất lúa được chuyển đổi).
Có thể bạn quan tâm

Tính đến cuối năm 2014, diện tích chuối của riêng xã Tân Long đã lên đến trên 700 ha trên tổng số khoảng 2.200 ha của toàn huyện. Đây là cây dễ trồng, phù hợp với thổ nhưỡng, khí hậu, điều kiện canh tác ở địa phương, lại ít sâu bệnh, bán được giá nên nông dân Tân Long tích cực mở rộng diện tích chuối. Những năm qua chuối Hướng Hóa đã trở thành mặt hàng xuất khẩu có giá trị, mang về một nguồn thu không nhỏ cho người dân.

Ngành Nông nghiệp huyện Châu Thành (An Giang) phối hợp các ngành chức năng triển khai thực hiện 7 nhà trồng nấm ứng dụng công nghệ cao (quy mô từ 24-30 m2/nhà). Trong đó, thị trấn An Châu 3 nhà và xã An Hòa 4 nhà, trồng các loại: Nấm rơm, nấm bào ngư, nấm mèo...

Ở huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long, nằm hai bên bờ sông Măng Thít, cách TP Vĩnh Long 32 km, cách TP Cần Thơ 28 km - từ lâu nổi tiếng thương hiệu cam sành ngọt lịm.

Tuy nhiên, do sản xuất manh mún, nhỏ lẻ, chưa có quy hoạch vùng nguyên liệu ổn định; các đơn vị đăng ký thương hiệu còn ít. Phần lớn sản phẩm sản xuất ra chưa đáp ứng được tiêu chí về đăng ký bảo hộ thương hiệu; chứng nhận vệ sinh an toàn thực phẩm; bao bì, nhãn mác đơn điệu, thiếu tính thẩm mỹ, chưa tạo được thiện cảm với người tiêu dùng; hoạt động quảng bá sản phẩm mới thực hiện trong phạm vi hẹp chứ chưa sâu rộng, đồng bộ… nên số lượng hàng hóa nông sản tiêu thụ tại thị trường lớn chưa nhiều, giá bán bấp bênh.

Giá khóm tại Tân Phước (Tiền Giang) hiện đang rớt giá mạnh khiến nhiều nông dân lo lắng. Qua khảo sát tại các điểm thu mua, giá khóm hiện chỉ trên dưới 1.000 đồng/kg nhưng lượng mua vào rất ít.