Tàu dịch vụ, động lực cho nghề cá phát triển
Kết quả đó, ngoài yếu tố ngư trường, không thể không kể tới tác động từ việc phát triển tàu công suất lớn và mua sắm trang thiết bị hiện đại của ngư dân, trong đó đặc biệt là vai trò đóng góp của các tàu dịch vụ hậu cần trên biển.
Từ khi Đề án “Tổ chức lại nghề khai thác hải sản tỉnh Ninh Thuận giai đoạn 2013 – 2020” được triển khai, có dịp đi về các miền biển gặp gỡ, trao đổi với một số chủ tàu cá, chúng tôi ghi nhận thái độ hồ hởi của mọi người khi nêu quyết tâm đóng tàu lớn, chuyển dịch nghề vươn khơi xa đánh bắt hải sản làm giàu cho gia đình, quê hương và góp phần bảo vệ chủ quyền lãnh hải.
Nếu trong giai đoạn 2010 - 2013, toàn tỉnh chỉ có 11 chiếc đi đánh bắt xa bờ, thì đến nay đã tăng lên 62 chiếc (51 tàu khai thác và 11 tàu dịch vụ hậu cần nghề cá), xu hướng đó đang tiếp tục tăng qua đăng ký của ngư dân.
“Hầu hết tàu cá này hoạt động khai thác ở vùng biển quần đảo Trường Sa, đây có thể coi là bước đầu thành công trong chuyển đổi nghề của ngư dân tỉnh nhà”- Anh Đặng Văn Tín, Chi cục trưởng Chi cục KT&BVNLTS tỉnh cho biết.
Cùng với yếu tố cơ cấu tàu cá đang chuyển dịch theo hướng đánh bắt xa bờ, đáng chú ý là hoạt động dịch vụ hậu cần nghề cá tương đối phát triển trên các cảng cá, bến cá, đủ khả năng đáp ứng cho 80% nhu cầu hoạt động khai thác hải sản.
Tàu dịch vụ vận chuyển cá cập cảng Đông Hải.
Không chỉ hoạt động trên bờ, cách đây 2 năm, qua tìm hiểu chúng tôi được biết đã có khoảng 24 tàu làm nghề dịch vụ thu mua hải sản trên biển, tuy hoạt động mới chủ yếu ở vùng lộng, gần bờ nhưng đã góp phần vào sự thay đổi dần nhận thức, tư duy hoạt động khai thác đánh bắt của ngư dân.
Sự thay đổi tư duy này được chứng minh rõ khi từ cuối năm ngoái đã có 6 tàu cá đăng ký hành nghề dịch vụ hậu cần nhưng là phục vụ cho khai thác xa bờ, riêng từ tháng 4 đến tháng 7 năm nay lại có thêm 5 tàu đăng ký tương tự.
Trong số 11 tàu làm dịch vụ hậu cần nghề cá xa bờ này, có 7 chiếc của ngư dân xã Phước Dinh (Thuận Nam), 2 chiếc ở phường Mỹ Đông và 2 chiếc ở phường Đông Hải (Tp.Phan Rang-Tháp Chàm).
Các tàu này đều có công suất lớn, trong đó có 3 tàu (120 CV, 160 CV, 185 CV), 2 tàu (230 CV, 247 CV), 4 tàu (310 CV, 320 CV, 340 CV, 360 CV), 1 tàu 410 CV và 1 tàu 580 CV.
Gần đây, qua thực hiện Nghị định số 67/2014/NĐ-CP, ngày 7-7-2014 của Chính phủ về một số chính sách phát triển thủy sản, tỉnh ta có 8 ngư dân được phê duyệt vay vốn đợt đầu để đóng 1 tàu vỏ sắt, 3 tàu vỏ composite và 4 tàu vỏ gỗ bọc composite thì đã có 3 tàu xác định nghề làm dịch vụ hậu cần phục vụ cho khai thác xa bờ của ngư dân Dương Văn Thắng (Mỹ Đông), Võ Ngọc Minh (Đông Hải) và Nguyễn Đức Hải (Mỹ Tân, Thanh Hải, Ninh Hải).
Ông Dương Văn Thắng tâm sự:
Hiện tại gia đình có 1 tàu 160 CV đang làm dịch vụ hậu cần nghề cá ở biển khơi, cung cấp xăng dầu, thực phẩm và các nhu cầu khác, nhưng có sử dụng máy dò ngang nên cũng tham gia khai thác, lúc chưa thu mua được cá, nếu quét máy phát hiện có đàn cá lớn sẽ gọi tàu bạn đến đánh bắt chia đôi rồi nhận chở vào bờ.
Hiểu rõ tác động từ tàu dịch vụ đối với hoạt động đánh bắt xa bờ, ông Dương Văn Thắng tham gia dự án vay vốn theo NĐ số 67 và là người duy nhất đóng tàu sắt 800 CV chuyên làm dịch vụ hậu cần nghề cá.
Các ngư dân Võ Ngọc Minh và Nguyễn Đức Hải khi trao đổi với chúng tôi cũng cho biết, để phục vụ khai thác xa bờ, tàu họ ra khơi xa liên tục dùng máy dò ngang quét cá, phát hiện có đàn cá sẽ gọi ngay đội tàu gần nhất đến khai thác rồi ăn chia theo thỏa thuận và đảm trách vận chuyển vào bờ tiêu thụ.
Đến nay tỉnh ta đã có 98 tổ đoàn kết sản xuất trên biển với tổng số 468 tàu cá tham gia, so với đầu năm đã tăng thêm 22 tổ với 153 tàu cá.
Có thể nói, với sự xuất hiện của các tàu làm dịch vụ hậu cần nghề cá phục vụ cho khai thác xa bờ, đã góp phần đẩy mạnh hoạt động hợp tác trong nghề đánh bắt và liên kết giữa các khâu (khai thác, chế biến, dịch vụ hậu cần thương mại ở các cảng cá, bến cá) nên tình hình tiêu thụ nhanh hơn và giá sản phẩm tiếp tục tăng so với năm trước.
Theo hướng khuyến khích ngư dân chuyển đổi cơ cấu thuyền nghề, tàu dịch vụ đang tạo động lực cho nghề cá tỉnh nhà phát triển và góp phần chuyển dịch dần cơ cấu hải sản đánh bắt xa bờ có giá trị kinh tế cao.
Có thể bạn quan tâm
Việc sản xuất nhân tạo giống nhiều loài cá quý của Trung tâm Thủy sản tỉnh Tuyên Quang thành công đã giải quyết được vấn đề về con giống, cũng như bảo vệ được nguồn lợi cá quý tự nhiên đang có nguy cơ cạn kiệt.
Có thể so sánh mô hình nuôi trồng thủy sản kiểu mới này ở huyện Bình Đại (Bến Tre) cũng giống như mô hình chăn nuôi bằng đệm lót sinh học trong chăn nuôi heo, gà ở các huyện trong tỉnh. Mô hình này có nhiều ưu điểm là ít vốn, an toàn, ăn chắc, bảo vệ môi trường, phù hợp với bà con nông dân khi không đủ vốn để nuôi tôm theo hướng công nghiệp.
Với trên 20km bờ biển, vùng bãi triều rộng lớn và nguồn phù sa, vi sinh vật, vi khoáng núi đá vôi vô tận của 2 cửa sông Ninh Cơ và sông Đáy đổ về đã tạo cho huyện Nghĩa Hưng (Nam Định) nhiều lợi thế trong nuôi trồng thủy, hải sản; đặc biệt thích hợp cho sự phát triển, sinh trưởng của cá bống bớp.
Các hộ dân nghèo không có đất sản xuất nông nghiệp tận dụng các khoản đất trống xung quanh nhà hoặc dưới sàn nhà để thiết kế bể lót bạt ny-lon nuôi lươn, nâng cao thu nhập cho gia đình.
Giá hầu hết các loại thủy sản đánh bắt tự nhiên trong mùa lũ năm nay đều tăng từ 10.000-30.000 đồng/kg so với cùng kỳ năm trước.