Trang chủ / Tin tức / Mô hình kinh tế

Starbucks và nỗi buồn cà phê Việt

Starbucks và nỗi buồn cà phê Việt
Ngày đăng: 13/08/2015

Mới đây, sản phẩm cà phê chè (Arabica) có xuất xứ Cầu Đất, Đà Lạt đã chính thức trở thành một trong bảy loại cà phê Arabica được hãng cà phê nổi tiếng Starbucks (Mỹ) chọn giao dịch, mua bán trên toàn thế giới. Stabucks cho biết họ sẽ bắt đầu bán cà phê Arabica có xuất xứ Việt Nam tại hơn 21.500 cửa hàng ở 56 quốc gia trên toàn thế giới trong thời gian tới.

Thương hiệu bị đánh cắp

Ông Nguyễn Quang Bình, chuyên gia ngành cà phê (Giám đốc Công ty TNHH Cà phê Chánh Tinh Anh), cho biết, để được lựa chọn trở thành một trong những sản phẩm tại Starbucks, cà phê phải bảo đảm vị, mùi và tiêu chuẩn an toàn khá khắt khe. Trước đây, Starbucks chỉ chọn sáu quốc gia làm nhà cung cấp cà phê Arabica cho chuỗi cửa hàng của mình gồm Indonesia, Kenya, Rwanda, Brazil, Colombia và Guatemala.

“Ngoài ra, Starbucks bắt buộc nguồn cung ứng nguyên liệu phải đảm bảo chất lượng và tính bền vững, liên tục. Do đó một khi Starbucks đã chọn thì họ sẽ mua lâu dài, điều đó có lợi cho ngành cà phê Việt Nam”, ông Bình nói.

Ông Bình cho rằng, bao nhiêu năm nay cà phê Việt chỉ xuất thô gần 95%, thị phần xuất khẩu nằm trong tay các tập đoàn đa quốc gia. Họ thu mua hết nguyên liệu tận vườn nông dân. Nghịch lý là họ gom cà phê xuất khẩu tại cảng Việt Nam chở về các kho của họ ở nước ngoài, sàng lọc lựa chọn đóng bao lại và nguồn gốc cà phê Việt Nam không còn. Thay vào đó là nguồn gốc Indonesia, Colombia… những nước có lượng cà phê xuất khẩu rất thấp.

Ông Trần Thanh Hải, Công ty CP Sở Giao dịch cà phê và hàng hóa Buôn Ma Thuột, kể câu chuyện ông đi sang Nam Phi, được các nhà nhập khẩu cho biết ở các nước châu Phi họ uống cà phê Việt Nam song xuất xứ trên bao bì sản phẩm đều ghi cà phê từ các nước Indonesia, Kenya, Guatemala.

“Thương hiệu cà phê Việt Nam đã bị các doanh nghiệp (DN) FDI “đánh cắp” trắng trợn. Họ cạnh tranh với DN trong nước, mua cà phê ở tận từng xã. Với nguồn lực tài chính lớn, họ mua giá cao hơn, gom được hàng nhiều hơn. Xuất khẩu tại Việt Nam nhưng đến kho, nguồn gốc bị thay đổi thành cà phê nước khác.

Thực trạng này kéo dài nhiều năm khiến thương hiệu cà phê sản xuất tại Việt Nam không có tiếng trên thế giới. Starbucks mua cà phê Việt Nam vì họ sang Việt Nam làm ăn, được tới tận vườn trồng cà phê, chọn lựa, thưởng thức mới biết vị ngon của hạt cà phê Việt”, ông Hải bày tỏ.

Cần có nguyên liệu “sạch”

Ý kiến các chuyên gia ngành cà phê đều cho rằng Việt Nam chỉ chú trọng về lượng, coi thường việc tăng giá trị khiến giá bán thường thấp hơn cà phê các nước khác. Trong khi đó, giá trị một đơn vị cà phê qua chế biến cao hơn cà phê nhân gấp ba lần.

Tuy nhiên, ông Nguyễn Quang Bình cũng chỉ ra: “Nói thì dễ, ai cũng biết giá trị gia tăng cao nếu chế biến sâu nhưng liệu DN Việt Nam có đủ sức, đủ công nghệ, đủ khả năng cạnh tranh với các thương hiệu cà phê rang xay, hòa tan đã có lịch sử phát triển cả trăm năm như Nestlé, Starbucks… không?”.

Theo ông Bình, thế mạnh của cà phê Việt Nam bao nhiêu năm nay vốn là nhà cung ứng nguyên liệu cho các nhà rang xay thế giới. Vốn, công nghệ, hệ thống phân phối toàn cầu DN Việt đi sau các ông lớn trên thế giới mấy chục năm. Quan trọng nhất là thị trường.

Sự cạnh tranh không chỉ ở chất lượng mà còn là thương hiệu toàn cầu. DN xuất khẩu cà phê Việt Nam chỉ cần làm tốt chất lượng cà phê, cụ thể thu mua cà phê chín, không để hàng lẫn dị vật cát, đá… Khi đó DN nhập khẩu sẽ mua giá cao hơn, thương hiệu cà phê Việt Nam dần được nhiều nước biết tới. Như cà phê ở Nông trường Thắng Lợi (Đắk Lắk) có giá bán luôn cao nhờ uy tín, chất lượng.

Ông Đỗ Hà Nam, Tổng Giám đốc Công ty CP Tập đoàn Intimex, đồng thời là Phó chủ tịch Hiệp hội Cà phê Ca cao Việt Nam (Vicofa), thừa nhận DN ông không đầu tư theo hướng rang xay vì sẽ cạnh tranh với những tập đoàn quá lớn trên thế giới mà DN cố gắng làm thật tốt những gì thuộc về thế mạnh và điều kiện của mình để tích lũy vốn, kinh nghiệm, chờ cơ hội tốt mới mở rộng thị trường.


Có thể bạn quan tâm

Hiệu Quả Từ Mô Hình Ương Nuôi Ghép Cá Sặc Rằn Với Cá Thát Lát Cườm Hiệu Quả Từ Mô Hình Ương Nuôi Ghép Cá Sặc Rằn Với Cá Thát Lát Cườm

Huyện Cờ Đỏ là một huyện vùng sâu, và có diện tích ương cá tra giống lớn nhất của TP Cần Thơ. Những năm trước, cá tra có giá nên diện tích ương giống cá tra tăng lên nhanh chóng, không theo qui hoạch và khuyến cáo của ngành chức năng. Tuy nhiên, 2 năm trở lại đây, cá tra rớt giá thê thảm, những hộ ương nuôi cá tra lỗ nặng, nợ nần chồng chất. Do đó người nuôi phải lựa chọn đối tượng nuôi ít rủi ro và cho lợi nhuận cao. Mô hình nuôi ghép cá sặc rằn với cá thát lát cườm được bà con chọn lựa, bước đầu mang lại thu nhập khá hấp dẫn.

10/04/2013
Tăng Cường Quản Lý Để Phát Triển Bền Vững Tăng Cường Quản Lý Để Phát Triển Bền Vững

Tình hình nuôi trồng thủy sản trên địa bàn TX Sông Cầu (Phú Yên) từ đầu năm đến nay có nhiều thuận lợi, các đối tượng nuôi đều phát triển tốt, bệnh trên tôm hùm nuôi cũng giảm đáng kể. Tuy nhiên, hiện việc nuôi trồng thủy sản chưa phát triển bền vững, môi trường nhiều vùng nuôi bị ô nhiễm…

30/10/2013
Nuôi Chim Trĩ, Mô Hình Đầy Triển Vọng Ở Quảng Ngãi Nuôi Chim Trĩ, Mô Hình Đầy Triển Vọng Ở Quảng Ngãi

Với đàn chim trĩ gần 100 con, trong đó có 60 chim mái đang trong giai đoạn đẻ trứng, sau khi trừ chi phí thì lợi nhuận mỗi năm từ việc bán con giống và chim trưởng thành ước từ 70 - 100 triệu đồng/năm.

10/04/2013
Thực Trạng Liên Kết Sản Xuất Trong Ngành Hàng Cá Tra Thực Trạng Liên Kết Sản Xuất Trong Ngành Hàng Cá Tra

Không có ngành, lĩnh vực nào phát triển “thần tốc” như ngành sản xuất cá tra. Nó đã từng giúp cho hàng ngàn nông dân trở nên giàu có, hàng trăm doanh nghiệp (DN) ăn nên làm ra, giúp ngành thủy sản cả nước luôn giữ tốc độ phát triển cao, trong khoảng 10 năm (2002- 2012).

30/10/2013
Hiệu Quả Kinh Tế Từ Trồng Chuối Cấy Mô Hiệu Quả Kinh Tế Từ Trồng Chuối Cấy Mô

Mặc dù giá trị kinh tế không cao như nuôi thuỷ sản nhưng cây chuối ở Cà Mau có diện tích lớn nhất so với các tỉnh trong khu vực ĐBSCL, với khoảng 5.000 ha, tập trung nhiều ở 3 huyện: U Minh, Trần Văn Thời và Thới Bình.

11/04/2013