Starbucks và nỗi buồn cà phê Việt
Mới đây, sản phẩm cà phê chè (Arabica) có xuất xứ Cầu Đất, Đà Lạt đã chính thức trở thành một trong bảy loại cà phê Arabica được hãng cà phê nổi tiếng Starbucks (Mỹ) chọn giao dịch, mua bán trên toàn thế giới. Stabucks cho biết họ sẽ bắt đầu bán cà phê Arabica có xuất xứ Việt Nam tại hơn 21.500 cửa hàng ở 56 quốc gia trên toàn thế giới trong thời gian tới.
Thương hiệu bị đánh cắp
Ông Nguyễn Quang Bình, chuyên gia ngành cà phê (Giám đốc Công ty TNHH Cà phê Chánh Tinh Anh), cho biết, để được lựa chọn trở thành một trong những sản phẩm tại Starbucks, cà phê phải bảo đảm vị, mùi và tiêu chuẩn an toàn khá khắt khe. Trước đây, Starbucks chỉ chọn sáu quốc gia làm nhà cung cấp cà phê Arabica cho chuỗi cửa hàng của mình gồm Indonesia, Kenya, Rwanda, Brazil, Colombia và Guatemala.
“Ngoài ra, Starbucks bắt buộc nguồn cung ứng nguyên liệu phải đảm bảo chất lượng và tính bền vững, liên tục. Do đó một khi Starbucks đã chọn thì họ sẽ mua lâu dài, điều đó có lợi cho ngành cà phê Việt Nam”, ông Bình nói.
Ông Bình cho rằng, bao nhiêu năm nay cà phê Việt chỉ xuất thô gần 95%, thị phần xuất khẩu nằm trong tay các tập đoàn đa quốc gia. Họ thu mua hết nguyên liệu tận vườn nông dân. Nghịch lý là họ gom cà phê xuất khẩu tại cảng Việt Nam chở về các kho của họ ở nước ngoài, sàng lọc lựa chọn đóng bao lại và nguồn gốc cà phê Việt Nam không còn. Thay vào đó là nguồn gốc Indonesia, Colombia… những nước có lượng cà phê xuất khẩu rất thấp.
Ông Trần Thanh Hải, Công ty CP Sở Giao dịch cà phê và hàng hóa Buôn Ma Thuột, kể câu chuyện ông đi sang Nam Phi, được các nhà nhập khẩu cho biết ở các nước châu Phi họ uống cà phê Việt Nam song xuất xứ trên bao bì sản phẩm đều ghi cà phê từ các nước Indonesia, Kenya, Guatemala.
“Thương hiệu cà phê Việt Nam đã bị các doanh nghiệp (DN) FDI “đánh cắp” trắng trợn. Họ cạnh tranh với DN trong nước, mua cà phê ở tận từng xã. Với nguồn lực tài chính lớn, họ mua giá cao hơn, gom được hàng nhiều hơn. Xuất khẩu tại Việt Nam nhưng đến kho, nguồn gốc bị thay đổi thành cà phê nước khác.
Thực trạng này kéo dài nhiều năm khiến thương hiệu cà phê sản xuất tại Việt Nam không có tiếng trên thế giới. Starbucks mua cà phê Việt Nam vì họ sang Việt Nam làm ăn, được tới tận vườn trồng cà phê, chọn lựa, thưởng thức mới biết vị ngon của hạt cà phê Việt”, ông Hải bày tỏ.
Cần có nguyên liệu “sạch”
Ý kiến các chuyên gia ngành cà phê đều cho rằng Việt Nam chỉ chú trọng về lượng, coi thường việc tăng giá trị khiến giá bán thường thấp hơn cà phê các nước khác. Trong khi đó, giá trị một đơn vị cà phê qua chế biến cao hơn cà phê nhân gấp ba lần.
Tuy nhiên, ông Nguyễn Quang Bình cũng chỉ ra: “Nói thì dễ, ai cũng biết giá trị gia tăng cao nếu chế biến sâu nhưng liệu DN Việt Nam có đủ sức, đủ công nghệ, đủ khả năng cạnh tranh với các thương hiệu cà phê rang xay, hòa tan đã có lịch sử phát triển cả trăm năm như Nestlé, Starbucks… không?”.
Theo ông Bình, thế mạnh của cà phê Việt Nam bao nhiêu năm nay vốn là nhà cung ứng nguyên liệu cho các nhà rang xay thế giới. Vốn, công nghệ, hệ thống phân phối toàn cầu DN Việt đi sau các ông lớn trên thế giới mấy chục năm. Quan trọng nhất là thị trường.
Sự cạnh tranh không chỉ ở chất lượng mà còn là thương hiệu toàn cầu. DN xuất khẩu cà phê Việt Nam chỉ cần làm tốt chất lượng cà phê, cụ thể thu mua cà phê chín, không để hàng lẫn dị vật cát, đá… Khi đó DN nhập khẩu sẽ mua giá cao hơn, thương hiệu cà phê Việt Nam dần được nhiều nước biết tới. Như cà phê ở Nông trường Thắng Lợi (Đắk Lắk) có giá bán luôn cao nhờ uy tín, chất lượng.
Ông Đỗ Hà Nam, Tổng Giám đốc Công ty CP Tập đoàn Intimex, đồng thời là Phó chủ tịch Hiệp hội Cà phê Ca cao Việt Nam (Vicofa), thừa nhận DN ông không đầu tư theo hướng rang xay vì sẽ cạnh tranh với những tập đoàn quá lớn trên thế giới mà DN cố gắng làm thật tốt những gì thuộc về thế mạnh và điều kiện của mình để tích lũy vốn, kinh nghiệm, chờ cơ hội tốt mới mở rộng thị trường.
Có thể bạn quan tâm
Bác Nhân luôn được bà con trong thôn tin yêu, kính trọng, 12 năm qua, Bác được nhân dân trong thôn bầu làm trưởng thôn. Lũng Tao là một trong những thôn khó khăn nhất của xã Đổng Xá, những năm trước đây, gia đình bác Nhân cũng như các gia đình khác còn nghèo đói, có năm gia đình thiếu ăn vài ba tháng.
Những ngày đầu tháng 1 đến nay, bà con ngư dân 2 xã Quảng Công, Quảng Ngạn(Thừa Thiên Huế) trúng đậm mùa ruốc. Sau mỗi ngày ra khơi, trung bình mỗi tàu khai thác trên 3 tạ ruốc.
Đối với người nuôi thủy sản tỉnh, thành công của mô hình nuôi cá chình do Công ty TNHH Hưng Biển thực hiện từ tháng 7-2011 đến tháng 11-2012 trên vùng cát Bảo Ninh đã giúp họ có cái nhìn mới đối với việc đa dạng hóa đối tượng thủy sản nuôi, trong đó có việc tìm đến những đối tượng thủy đặc sản có giá trị kinh tế cao.
Ông Võ Văn Hưng, 61 tuổi (tổ 28, Hòa Quý, Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng) có thâm niên 23 năm nuôi cá lóc. Năm nay mô hình nuôi cá lóc trong lưới của ông cho thu nhập trên 1 tỷ đồng.
Về thôn Khả Lý Thượng, xã Quảng Minh, huyện Việt Yên (Bắc Giang), hỏi thăm đến nhà ông “vua gấc” Trần Sĩ Quảng, bà con trong thôn từ già đến trẻ nhỏ ai nấy đều cho biết, ông Quảng là một nông dân cần cù, chịu khó, làm giàu và nổi danh từ nghề trồng cây gấc.