Phát Triển Nuôi Lồng Bè Cá Măng Sữa
Nuôi lồng bè ở những ao nước ngọt giàu dinh dưỡng
Bè cá bao gồm 1 lưới hàng rào bao bên ngoài với 7 nút lưới và 1 lưới bao bên trong với mắt lưới nhỏ hơn (17 nút). Kích thước của bè cá dao động từ 1 ha đến tối đa là 50 ha(tối đa cho phép ở Vịnh Laguna. Ở những hồ nhiều sinh vật phù du thì cá măng chủ yếu ăn sinh vật phù du và các loại cỏ dưới đáy ao.
Tuy nhiên có những giai đoạn cần bổ sung thức ăn khi mật độ thả cao hoặc nguồn thức ăn tự nhiên cạn kiệt. Những người quản lí bè cá ở Vịnh Laguna (độ sâu trung bình là 3 mét) thả cá giống với mật độ từ 3000 con đến 5000 con trên 1 héc ta, tương đương 1 con trên 1 m3. Cá lớn đến khi xuất bè(đạt 250-300g) trong vòng 4-8 tháng với tỉ lệ sống sót đạt 60-80% và năng suất từ 4000kg/ha đến 10.000 kg/ha.
Source: Milkfish Production and Processing Technologies in the Philippines
This project was funded by the Department of Agriculture - Bureau of Agricultural Research (BAR) and was made possible through the generous support and collaboration with the Southeast Asian Fisheries Development Center (SEAFDEC), the Bureau of Fisheries and Aquatic Resources (BFAR) and the University of the Philippines in the Visayas (UPV)
Tác giả: Wilfredo G. Yap, Antonio C. Villaluz, Ma. Gracia G. Soriano, and Mary Nia Santos
Có thể bạn quan tâm
Phương pháp này áp dụng cho ao sâu hơn (tối thiểu là 1 mét) đối với mật độ nuôi cá măng lớn hơn bằng cách sử dụng sinh vật phù du thay vì dùng tảo đáy làm thức ăn. Ao nước sâu hơn sẽ làm tăng lượng nước trên 1 đơn vị diện tích do đó có nhiều không gian cho cá cũng như nguồn thức ăn tự nhiên phát triển.
Đặc trưng của phương pháp trên là sử dụng ao nhỏ hơn với kích thước từ 1 đến 5 héc ta, độ sâu tối thiểu 1 mét và gia tăng tỷ lệ cá giống từ 8000 con đến 12,000 con trong ao nuôi. Việc trao đổi nước thông qua mở rộng cửa, đào các mương nước và sử dụng các máy bơm.
Hệ thống này nhằm duy trì cân bằng giữa số lượng cá thể và nguồn thức ăn tự nhiên bằng cách thả định kì cá với nhiều kích cỡ và thu hoạch làm nhiều đợt.
Cá măng được nuôi chung với tôm,cua đen, cá dià, cá mú, cá rô phi, rong biển, động vật thân mềm và nhiều loại cá khác hoặc lứa cá nhỏ hoặc lứa trung. Nhưng nuôi ghép cá măng với tôm hoặc cua là phổ biến và có lợi nhuận cao nhất.
Nuôi cá măng thâm canh yêu cầu ao nuôi thương phẩm với diện tích nhỏ hơn (0,1-1 héc ta) nhưng sâu hơn (từ 1-2 mét), vốn đầu tư và vốn lưu động lớn cũng như trình độ kĩ thuật cao. Hình thức nuôi này cho thu từ 2 đến 3 vụ cá trên năm và sản lượng cá đạt 12 tấn trên ha nhưng cũng tiềm ẩn những rủi ro cao.