Nhiều Thách Thức Trong Quá Trình Chuyển Đổi Cây Màu Trên Đất Lúa
Việc chuyển đổi đất trồng lúa kém hiệu quả sang trồng cây màu phù hợp là một hướng đi cấp thiết và đúng đắn, nhằm tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng, phát triển bền vững, cũng như giảm áp lực tiêu thụ lúa, gạo trong bối cảnh thị trường tiêu thụ khó khăn. Tuy nhiên, để tìm được hướng đi bền vững cho cây màu hiện vẫn còn nhiều thách thức.
Những năm qua, tốc độ tăng trưởng ngành sản xuất lúa gạo của Đồng Tháp liên tục tăng mạnh. Diện tích gieo trồng hằng năm ước đạt 500 nghìn ha, sản xuất 2 - 3 vụ/năm. Năm 2013, diện tích trồng lúa của tỉnh tăng 514.803 ha, sản lượng 3,3 triệu tấn, đạt cao nhất từ trước đến nay.
Tuy nhiên, việc tăng sản lượng vẫn chưa tạo cho tỉnh có bước chuyển dịch kinh tế mạnh mẽ. Hiện tại nền nông nghiệp của tỉnh vẫn đang đứng trước nhiều khó khăn và thách thức mới, khi hiệu quả từ cây lúa càng ngày càng thấp dần, nông dân vẫn chưa giàu lên nhờ trồng lúa.
Khi lúa liên tục rớt giá, nông dân trong tỉnh đã chuyển đổi diện tích khá lớn sang canh tác một số loại cây màu ngắn ngày. Diện tích trồng màu trên đất lúa liên tục tăng trong những năm gần đây. Năm 2010, tổng diện tích trồng màu của tỉnh chỉ 28.891ha thì đến năm 2013 tăng lên 30.047ha. Theo dự báo của Chi cục Bảo vệ thực vật (CCBVTV) tỉnh thì năm 2014, diện tích trồng màu tăng rất mạnh so với những năm trước.
Trong đó, các loại cây có ưu thế kinh tế được nông dân chuyển đổi mạnh là cây mè, bắp, đậu nành, ớt, khoai lang... và một số loại rau màu ngắn ngày khác. Theo khảo sát đánh giá của CCBVTV tỉnh, phần lớn cây màu đều cho hiệu quả kinh tế cao hơn so với trồng lúa.
Trên cùng một diện tích canh tác (1ha) thì tỉ suất lợi nhuận của trồng lúa chỉ đạt 0,10; cây mè là đối tượng có tỉ suất lợi nhuận cao nhất là 1,44 được nông dân chọn lựa và phát triển nhanh diện tích trong những năm trở lại đây.
Tuy nhiên, chuyển đổi trồng màu trên nền đất lúa không đơn giản là thay đổi giống cây trồng này bằng một giống cây trồng khác, mà nó liên quan tới nhiều yếu tố.
Phải thấy rằng, việc đầu tư cho việc chuyển dịch này, nông dân cần vốn nhiều hơn, kỹ thuật canh tác tốt hơn, cơ sở hạ tầng phải hoàn thiện hơn, phải tìm được các loại giống cho hiệu quả kinh tế, đủ sức cạnh tranh để doanh nghiệp trong nước không phải nhập đậu nành và bắp lai để sản xuất thức ăn chăn nuôi như hiện nay và người nông dân cũng không phải lao đao tìm thị trường tiêu thụ.
Thực tiễn cho thấy, bên cạnh những hiệu quả từ trồng màu thì nông dân vẫn không ít lần “nếm mùi thất bại” khi chuyển dịch sang mô hình mới. Bài học từ cây đậu nành, cây dưa hấu và hiện tại là cây khoai lang vẫn còn đó...
Hiện nay, nhiều nông dân ở huyện Châu Thành, Lai Vung đang lao đao với cây khoai lang tím Nhật, khi giá khoai rớt mạnh từ 900 nghìn đồng/tạ xuống còn từ 180 - 200 nghìn/tạ nhưng vẫn không có người mua. Khoai ngoài đồng vượt ngày thu hoạch nhưng bóng dáng thương lái mua khoai thì biệt tăm.
Anh Nguyễn Văn Tư ngụ xã Phong Hòa, huyện Lai Vung ngậm ngùi nói: “10 công khoai của tôi đã vượt ngày thu hoạch 2 tuần nhưng kêu bán không lái nào chịu mua. Để có chi phí sản xuất tôi đã vay mượn nhiều nơi, giờ khoai rớt giá thế này tôi cũng không biết phải tính sao”.
Bà Nguyễn Thị Ngọc Ánh, Chi cục Trưởng CCBVTV tỉnh phân tích: “Một trong những rào cản khiến việc chuyển đổi cây màu của tỉnh chưa thực sự hiệu quả là do chi phí sản xuất của chúng ta vẫn còn khá cao, giá thành sản phẩm chưa tạo được sự cạnh tranh trên thị trường.
Phần lớn diện tích canh tác màu của chúng ta vẫn còn ở quy mô nhỏ, lẻ; chưa đưa được cơ giới hóa vào sản xuất và thu hoạch; cơ sở hạ tầng phục vụ cho tưới tiêu trong sản xuất màu còn yếu... Đặc biệt, việc tổ chức liên kết tiêu thụ vẫn trong giai đoạn manh nha, phần lớn sản phẩm rau màu được tiêu thụ qua các kênh phân phối truyền thống là chủ yếu”.
Trong bối cảnh hiện nay, việc chuyển đổi từ cây lúa sang trồng màu nhằm giảm áp lực cho cây lúa, tăng thu nhập cho người nông dân là một hướng chuyển dịch cần thiết.
Tuy nhiên, cần phải tìm một giải pháp căn cơ hơn trên cơ sở kết quả rà soát quy hoạch, phân công, phân vai trong liên kết vùng, tạo giống mới cạnh tranh, tổ chức sản xuất, đặc biệt là đảm bảo thị trường tiêu thụ và phải liên kết vùng nhằm tránh tình trạng người nông dân cứ đổ xô sản xuất trong khi không biết sản phẩm của mình sẽ tiêu thụ ở đâu.
Có thể bạn quan tâm
Phòng Kinh tế hạ tầng phối hợp với Phòng NN&PTNT huyện Năm Căn (Cà Mau) đã hoàn thiện các thủ tục điều kiện đề nghị Cục Sở hữu trí tuệ công nhận nhãn hiệu tập thể đối với thương hiệu cua Năm Căn.
Thời điểm này, khu vực biên giới tỉnh Lạng Sơn đang căng sức đối phó với “mùa đổ bộ của gia cầm lậu”. PV Báo NNVN đã thâm nhập các điểm nóng buôn lậu gia cầm nhức nhối nhất từ trước đến nay. Gia cầm lậu vẫn đổ bộ, tuy nhiên đã giảm so với trước đây.
Là đơn vị đi đầu phát triển nuôi giống cá tầm tại Việt Nam, sau một thời gian nỗ lực và tâm huyết, Tập đoàn Cá tầm Việt Nam đã thành công trong việc xây dựng hệ thống nuôi cá tầm chuẩn mực, khoa học với quy mô rộng khắp, đưa Việt Nam thành một quốc gia dẫn đầu về nuôi và sản xuất một loài cá quý hiếm đang đứng bên bờ tuyệt chủng.
Tháng 10/2013, Cty Đức Thiện chính thức được tỉnh Yên Bái cấp giấy chứng nhận sử dụng nhãn hiệu "Chè Suối Giàng Yên Bái". Đây là một trong 2 đơn vị duy nhất được tỉnh Yên Bái cấp giấy chứng nhận được sử dụng nhãn hiệu Chè Suối Giàng. Trước đó, Cty Đức Thiện cũng đã khai trương một cửa hàng bán và giới thiệu chè cổ thụ Suối Giàng tại TP Yên Bái.
Nếu như những năm qua tôm thẻ chân trắng (gọi tắt tôm thẻ) chủ yếu được nuôi ở vùng nước lợ thuộc các tỉnh ven biển ĐBSCL, nay nhiều nông dân ở Đồng Tháp, An Giang… nảy sinh “sáng kiến” khoan giếng tìm nước mặn để nuôi tôm thẻ trong vùng nước ngọt. Điều bất ngờ khi có một số hộ trúng đậm, đã cuốn hút nhiều hộ khác làm theo.