Mùa Nhãn Trên Vùng Đất Cằn
Khởi nghiệp với 2 bàn tay trắng nhưng ông Bảy Quang đã phất lên nhờ trồng được cây nhãn ở vùng đất sỏi đá Xuân Hòa (huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai). “Cơ ngơi” sau 15 năm gắn bó với vùng đất sỏi đá của ông là 4 hécta nhãn tiêu da bò cùng nhiều giống cây ăn trái đặc sản, như: bưởi da xanh, quýt đường, cam sành…
Đến thăm gia đình ông Bảy Quang đúng mùa thu hoạch nhãn (tháng 9, 10 hàng năm) sẽ thấy cả khu vườn rộng lớn được phủ kín màu nâu của trái nhãn chín rộ. Đứng từ xa cả trăm mét vẫn có thể ngửi được mùi thơm của nhãn. Những chùm quả nặng trĩu kéo cành cây xuống gần sát đất.
* Bén “duyên” với cây nhãn
“Năm nay, nhãn trái nào trái nấy to tròn, căng mọng. Chùm càng ít trái thì trọng lượng mỗi trái càng lớn. Mỗi chùm bẻ xuống, cân từ 1 - 2kg, nhìn đã mắt. Trung bình năng suất đạt từ 16 - 17 tấn/hécta, giá đầu mùa mua tại vườn khá cao, khoảng 16 - 17 ngàn đồng/kg nên đợt này tôi thu về một khoản tiền kha khá. Hy vọng giá cao sẽ duy trì từ đây đến cuối mùa” - ông Bảy Quang hồ hởi nói.
Bên chén trà xanh, ông bắt đầu kể về quá trình “bén duyên” với vùng đất Xuân Hòa. Cũng như nhiều nông dân khác, ông vào đời sớm và trải qua nhiều gian nan, vất vả trước khi tạo được cơ ngơi. Năm 1999, ông là một trong những người đầu tiên từ huyện Cai Lậy (tỉnh Tiền Giang) đến Xuân Hòa lập nghiệp. Suốt 15 năm qua, hết nâng cây này lên hạ giống cây khác xuống, cuối cùng ông đã chọn cây nhãn để đánh một “ván bài” lớn.
Loại đất để trồng nhãn ở quê ông khác hoàn toàn so với đất xã Xuân Hòa. Đất nơi đây cằn cỗi, độ dốc cao nên không giữ nước được lâu. Việc thiếu nước vào mùa khô cũng là nỗi ám ảnh với những người trồng cây ăn trái. Những ngày đầu, cây nhãn cho năng suất thấp vì chưa quen với thổ nhưỡng ở đây. Cuối vụ thu hoạch, sau khi thanh toán hết mọi chi phí, ông Bảy Quang chỉ có thể bỏ túi chút kinh nghiệm chuẩn bị cho mùa sau.
“Cây trồng nào cũng vậy, có lúc giá cao ngất ngưởng giúp người trồng thắng lớn, đến khi giá xuống thấp thì nông dân thua lỗ. Chỉ mong đầu ra nông sản ổn định để những vụ mùa luôn bội thu và cho giá cao” - nông dân Ngô Văn Cho trăn trở.
“Phải mấy năm sau việc trồng nhãn mới có lãi, nhưng làm thế nào để nâng cao năng suất mới là vấn đề. Mỗi nhà vườn có cách trồng, kỹ thuật chăm bón khác nhau, khi áp dụng đúng cách thì năng suất cao đến bất ngờ. Dưới quê tui, một hécta nhãn thu hoạch khoảng 10 tấn trái, vậy mà ở đây lên tới 15-16 tấn” - ông Bảy Quang chia sẻ.
Hỏi kỹ thuật trồng nhãn như thế nào cho hiệu quả, ông kể vanh vách bằng chất giọng hào sảng, đậm chất miền Tây. Khi thu hoạch không nên hái cành quá sâu, sau đó cần tỉa những cành quá già cỗi, cành nhỏ mọc phía trong tán. Sau khi thu hoạch quả 15 ngày thì tiến hành bón bổ sung dinh dưỡng cho cây. Đây là đợt bón chủ lực trong năm nhằm cung cấp dinh dưỡng kịp thời cho cây ra hoa vào mùa sau.
Trước mỗi vụ hoa, việc quan trọng là phải siết cành nhưng cũng để lại một cành làm “chỗ thở” cho cây. Cứ mỗi năm lại siết cành một lần nên khắp thân cây chi chít vết sẹo lồi lõm. Ngoài ra, nhờ trồng chuyên canh nên mỗi đợt thu hoạch cho sản lượng lớn, thương lái đến mua ngay tại vườn mà không phải chuyên chở đi đâu.
Vừa bẻ những chùm nhãn lớn mang đãi khách, ông Bảy Quang vừa tâm sự: “Nhiều người không ngờ, vùng đất thiếu nước tưới gần nửa năm này có thể giúp cây ăn trái phát triển, tươi tốt sum suê. Cây nhãn đã không phụ sức người khi cho sản lượng cao, chất lượng không thua kém gì so với những nơi khác. Lúc đầu cứ tưởng năng suất chỉ 7-8 tấn/hécta, nhưng cuối cùng gần như gấp đôi rồi còn gì. Người trồng nhãn như tui đã thắng lớn ngay trên vùng đất sỏi đá này”.
* Vựa nhãn lớn
Khoảng thời gian cuối tháng 4, khi những cơn mưa đầu mùa tắm mát vùng đất khô cằn ở Xuân Hòa cũng là lúc nhãn bắt đầu ra hoa, kết trái. Đến tiết thu mát mẻ tháng 8-9, trái nhãn có cơm trắng, người trồng bắt đầu giăng lưới trên ngọn cây ngăn không cho chim chóc, dơi bọ đến phá hại. Những nhà vườn làm ăn lớn như ông Bảy Quang phải mất cả tuần lễ thuê nhân công về dựng “hàng rào” bảo vệ.
“Nhiều người nói trồng nhãn mà không giăng lưới ở trên thì coi như thiệt hại một nửa… Tui là một trong những người tiên phong chọn cây nhãn trồng ở đây, nên chừng ấy thời gian, mình đã quá quen với tính khí của loài cây này. Dù năm được, năm thất nhưng cây nhãn đã thay đổi đời sống của gia đình tui và những hộ sinh sống quanh đây. Đất bạc màu vẫn mang lại của cải lớn nếu chúng ta biết cách làm giàu” - ông Bảy Quang nói.
Hiện tại, ở ấp 2 xã Xuân Hòa có hơn 10 hộ trồng nhãn với diện tích lên đến hàng chục hécta. Nhiều người ăn nên làm ra, kinh tế gia đình khá giả, như các ông: Bảy Quang, Ngô Văn Cho, Liền A Viễn… Theo những chủ vườn, trồng nhãn cho thu nhập cao nhờ chi phí thấp, sử dụng phân, thuốc ít và công chăm sóc đơn giản hơn so với xoài, cam, bưởi…
“Hồi trước tui trồng cũng nhiều, nhưng bây giờ nhà neo người nên diện tích thu hẹp hơn 1,5 hécta. So với mọi năm, mùa này nhãn nhà tui đạt nhất. Nhờ biết cách chăm bón mà trái nhãn ở đây to, cơm dày, ngọt nước và năng suất đạt 15 tấn/hécta là thường. Trung bình, mỗi hécta nhãn thu về hơn 300 triệu đồng. Sau khi trừ mọi chi phí, tui bỏ túi cũng hơn trăm triệu đồng. Xuân Hòa đã trở thành “vựa” nhãn lớn của huyện Xuân Lộc” - ông Ngô Văn Cho (Chủ nhiệm Câu lạc bộ cây ăn trái xã Xuân Hòa) hồ hởi nói.
Đi qua những vườn nhãn tiêu da bò rộng thênh thang, hứa hẹn một khoản lợi nhuận lớn trong vụ thu hoạch này, ai cũng lâng lâng niềm vui, phấn khởi chờ đón cái kết đẹp là được giá. Chỉ mấy ngày nữa thôi, khi trái nhãn chín rộ, thương lái ở khắp mọi nơi đổ về bắt mối, lấy hàng, nơi đây sẽ chính thức bước vào vụ làm ăn lớn.
Có thể bạn quan tâm
Ông Nuyễn Văn Dũng, canh tác 0,9 ha dừa tại ấp Thới Trị, xã Châu Hoà (Giồng Trôm, Bến Tre) cho biết: Hơn một tháng trở lại đây dừa khô nguyên liệu liên tục giảm giá.
Ở tỉnh Đồng Tháp đã xuất hiện nhiều phương thức tích tụ ruộng đất để có hàng trăm ha, đáp ứng yêu cầu của nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa lớn.
Sáng 3/6, tại Hà Nội, Trung tâm Sinh thái Nông nghiệp (Học viện Nông nghiệp Việt Nam) phối hợp với Học viện Mekong (Thái Lan) đồng tổ chức Hội thảo “Nông nghiệp hợp đồng xuyên biên giới”.
Trung Quốc vẫn là thị trường nhập khẩu cao su lớn nhất của VN với 112.494 tấn, chiếm 56% tổng lượng xuất khẩu
Thời điểm này, người nuôi gia cầm đang trong cảnh “một cổ ba tròng”, những cái tròng thít lỏng hay chặt phụ thuộc vào đối tượng vật nuôi.