Mùa cá sặc bùn
Những ngày cuối tháng 6, về vùng hồ sông Đà, gặp đúng dịp mùa cá sặc bùn. Buổi trưa vùng hồ nắng nóng hầm hập hơn mọi khi... bỗng chốc mây đen ùn ùn kéo về kèm theo sấm chớp phía thượng nguồn, làm mọi người khấp khởi thay vì lo lắng. Thấy tôi ngạc nhiên không hiểu ẩn ý gì anh Đinh Văn Hạnh, trưởng bản Tang Lang, xã Đá Đỏ (Phù Yên) giải thích: “Kinh nghiệm dân sông nước chắc chắn tý nữa sẽ có mưa lũ, anh không nên về vội.
Đây là dịp cá sặc bùn trôi dạt từ thượng nguồn dồn về rất nhiều, nhà báo tha hồ có cái để viết!” Tôi nóng ruột sợ mưa tắc đường, đứng ngồi không yên, ra ra vào vào đầu sàn nhà ngóng trông thời tiết bỗng thấy cả bản xôn xao, nhà nhà gấp gáp chuẩn bị phương tiện, í ới gọi nhau ra sông đón đánh bắt cá, tôi cũng vội vàng bám theo.
Anh Đinh Văn Tôn ở bản Tang Lang, xã Đá Đỏ nhắc tôi nên cầm theo dao và vợt xúc cá. Chiếc thuyền sắt nhỏ gọn, gắn máy Cole nổ phành phạch ròn tan, rẽ sóng lao vun vút đưa chúng tôi ngược dòng ra bãi bồi giữa sông cắm xào đứng đợi. Ở đó đã có hàng chục thuyền của bản trên, bản dưới, có cả phụ nữ, trẻ em tham gia đã đến trước với tinh thần háo hức chờ đợi.
Anh Mùi Văn Nhất, ở bản Bắc Băn, xã Bắc Phong kể: “Năm ngoái lũ về sớm, nên tầm này tháng trước, bà con đã “thu hoạch đợt 1” mùa cá sặc bùn rồi! Nhưng không phải chỗ nào, đoạn nào cũng có cá sặc bùn, nó chỉ có từ đoạn Suối Mèo (giáp xã Chiềng Sại, Bắc Yên) xuống đến khu vực bản Đá Phổ (xã Bắc Phong, Phù Yên) trong khoảng chiều dài hơn 10km mà thôi. Vì vùng này có nhiều núi đá cao án ngữ, dòng sông quanh co, nước sâu, tạo nhiều quẩn, nên cá dạt về đây rất nhiều. Có năm, có đến 3 - 4 lần cá sặc bùn như vậy vào mùa mưa lũ, có nhà bắt được vài tạ cá là chuyện thường”.
Đang mải nghe chuyện, bỗng chốc dòng sông đục ngầu, cuồn cuộn chảy dồn về, cuốn trôi những khối phù sa bồi đắp dạt qua bờ phải, dồn sang bờ trái làm thuyền máy chúng tôi cũng chao đảo theo. Bỗng phía dưới vùng nước quẩn, có tiếng người hét thật to: “Cá sặc bùn rồi!” Mọi thuyền đều đồng loạt nổ máy chạy về hướng đó và trước mặt chúng tôi cá to, cá nhỏ đen kịt chen nhau thò đầu lên bờ để thở. Đứng trên mạn thuyền, ngó kỹ xuống mặt nước đục ngầu, thấy không những cá, mà cả tôm tép cũng dạt về đây nổi lên thành từng đám như đàn kiến, đặc kín vùng nước lặng.
Chúng tôi ai nấy đều háo hức nháo nhào táp thuyền vào bờ, cầm dao, vợt chạy dọc bờ mép nước thi nhau vây bắt, chọn những con cá to, rồi cùng nhau hò reo quăng lên thuyền, không phải tốn công sức bủa câu, giăng lưới. Những con cá lăng, nheo, chép, trắm, măng, mè to vài chục cân lao lên bờ, các tay thợ đánh bắt cá vùng sông nước khiêng lên thuyền một cách nhàn hạ như tháo ao cạn kiệt nước để bắt cá vậy. Có những hốc cát chưa đầy mét vuông có tới 4 - 5 con cá chép to cỡ hơn 2 chục cân/con rúc vào tránh lũ, dân chài phát hiện xúc gọn cả ổ lên thuyền, rồi nhanh tay dội can nước suối vào lòng thuyền để cho cá hồi sức trở lại.
Tuy nhiên, không phải con cá nào cũng đuối sức để dễ dàng bắt, nhất là những chú cá măng to cỡ 40 - 50 cân, vốn được mệnh danh là “cá mập trên sông” thường “giả vờ” nằm phơi mình bất động trên mặt nước, khi mọi người lao đến bắt chúng mới quật mạnh cái vây đuôi cùng vốc nước đục lẫn bùn vào mặt. Nhiều pha cười chảy nước mắt do chị em xúc trượt cá dưới chân đành vội vàng dùng váy “úp sọt”, rồi la hét nhờ mọi người trợ giúp, làm cho không khí bắt cá tưng bừng như ngày hội.
Mọi việc chỉ diễn ra trong vòng khoảng hơn 30 phút, cơn lũ bắt đầu hạ dần, số cá còn lại chưa kịp vớt đã kịp lại sức và xuôi theo dòng nước... Lúc này, nhiều thuyền cá đầy ắp, mọi người đều ướt sũng, “đánh vật” với chiến lợi phẩm “trời cho”. Những chú cá lăng, cá măng to, dài và nặng phải vất vả lắm mới lôi được lên khoang thuyền. Trời về chiều, mọi người nhổ neo vào bờ cập bến, ai cũng chạy đi, chạy lại khắp các thuyền để “khoe thành quả lao động”, những ngày này, bình quân mỗi thuyền bắt được khoảng từ 3 - 4 tạ cá.
Số cá này, phần lớn bà con mang đi phố huyện bán cho tư thương; những nhà có ao thì thả vào ao vài tạ bán dần; những con cá lăng, cá chiên được tư thương mua với giá trên 500.000 đồng/kg, nên nhiều nhà trúng đậm, thu về hàng chục triệu đồng. Còn những con cá bị chết, bà con chế biến làm cá chua đặc sản hoặc phơi khô bán, ăn dần.
Buổi tối hôm đó, nhà nhà đỏ lửa, quây quầnbên mâm cơm với các món ăn đều chế biến từ cá. Những khúc cá sông to như cái đĩa hấp xả thơm lừng, đầu cá nấu chua béo ngậy, bộ lòng trứng vàng rộm thơm nồng nghi ngút khói, cụng ly cạn chén rượu ngất ngây, rôm rả kể lại cảnh bắt cá sặc bùn.
Có thể bạn quan tâm
So với những năm trước, năm nay tôm nuôi phần lớn được mùa nhưng lại rớt giá; trong khi đó giống, thức ăn, mọi chi phí đầu vào đều cao.
Xã Tam Quan là địa phương chăn nuôi số lượng gia cầm lớn nhất huyện Tam Đảo (Vĩnh Phúc) (khoảng 1 triệu con). Tuy nhiên, năm 2004 và năm 2011 2011 do dịch cúm gia cầm H5N1 bùng phát, gây thiệt hại lớn về kinh tế và đời sống của nhân dân trên địa bàn.
Huyện Bát Xát (Lào Cai) được đánh giá có nhiều tiềm năng phát triển cây dược liệu quý. Đó là điều kiện khí hậu nhiệt đới và bán ôn đới với độ ẩm cao, diện tích rừng tự nhiên, rừng nguyên sinh chiếm 80% tổng diện tích rừng toàn huyện với thảm thực vật đa dạng, phong phú…
Những năm qua, huyện Vĩnh Tường (Vĩnh Phúc) đã tích cực thực hiện chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp theo hướng thâm canh tăng năng suất và giá trị kinh tế trên ha canh tác. Một trong các giải pháp là đẩy mạnh ứng dụng các đề tài nghiên cứu khoa học vào sản xuất, điều này đã phát huy hiệu quả ở một số loại cây như cây lúa cấy mật độ hợp lý, bí đỏ, ngô nếp, đặc biệt là cây cà chua ghép trên nhiều đồng đất tại Vĩnh Tường.
Những năm qua, một số loại cây trồng như sắn, điều… do không ổn định về giá cả, năng suất lại đạt thấp nên hoạt động thâm canh cây trồng, vật nuôi, nâng cao giá trị kinh tế đang là hướng đi của nhiều nông dân trong tỉnh.