Miễn thu phí, lệ phí KDTV đối với vải XK
Đây là chính sách đặc biệt nhằm đẩy mạnh XK vải tươi, nhất là tại các thị trường mới mở theo chỉ đạo của Bộ trưởng Bộ NN-PTNT Cao Đức Phát.
Công văn của Cục BVTV cũng yêu cầu các đơn vị KDTV thực hiện nghiêm những nội dung tại công văn số 859/BVTV-KD (Công văn 859) ngày 18/5/2015 của Cục BVTV về việc bố trí nhân lực, trang thiết bị làm thủ tục KDTV nhanh nhất cho các lô quả vải tươi XK.
Cụ thể theo Công văn 859, Cục BVTV yêu cầu các đơn vị KDTV bố trí cán bộ làm việc cả ngày lễ và ngoài giờ, đặc biệt là tại các cửa khẩu XK vải thiều lớn sang Trung Quốc như Tân Thanh (Lạng Sơn), Kim Thành (Lào Cai); phối hợp chặt chẽ với cơ quan hữu quan của Việt Nam tại cửa khẩu để hoàn tất nhanh nhất cho các lô hàng vải XK; tùy tình hình thực tế, nếu cần thiết có thể báo cáo Cục BVTV điều động thêm cán bộ KDTV cho các đơn vị để đảm bảo làm thủ tục nhanh nhất…
Cũng theo tổng hợp của Cục BVTV, tính đến ngày 23/6/2015, đã có tổng cộng gần 38 tấn quả vải thiều tươi đã được các DN xuất khẩu sang các nước EU, Úc, Mỹ và một số nước ASEAN bằng đường hàng không qua cảng hàng không quốc tế Nội Bài và Tân Sơn Nhất. Trong đó, XK qua Úc chiếm số lượng lớn nhất với trên 16 tấn, tiếp theo là Malaisia (trên 7,5 tấn); Pháp (3,4 tấn); Mỹ (3,2 tấn); CH Séc (2 tấn); Hà Lan (1,2 tấn)…
Một số DN có số lượng vải thiều XK đi lớn như Cty TNHH SX TM Rồng đỏ, Cty Cổ phần Tiến bộ Quốc tế; Cty TNHH Siêu trái cây; Cty TNHH Hồng Tín; Cty TNHH tiếp vận Tường Long… Ngoài ra, đã có tổng cộng trên 50 nghìn tấn vải tươi, hơn 3 nghìn tấn vải sấy khô được XK sang Trung Quốc qua các cửa khẩu Lạng Sơn và Lào Cai.
Có thể bạn quan tâm
Năm 2015, ngành Nông nghiệp và PTNT phấn đấu tăng diện tích nuôi trồng thủy sản lên 5.800ha; sản lượng đạt 8.000 tấn, chú trọng nghiên cứu ứng dụng tiến bộ khoa học về giống, thức ăn, chế phẩm sinh học; quy trình kỹ thuật nuôi trồng, phòng trừ dịch bệnh thủy sản theo hướng nâng cao năng suất, chất lượng…
Theo tính toán của các hộ, việc sử dụng đệm lót sinh học vào chăn nuôi không những giảm thiểu ô nhiễm môi trường, dịch bệnh mà còn giúp người dân tiết kiệm được 15% chi phí về điện, nước, công dọn chuồng trại, tăng trọng con nuôi nhanh, khoảng 10 - 15% so với chăn nuôi theo phương thức truyền thống.
Ngày 27/1, Sở NN&PTNT Hà Nội tổ chức hội nghị sơ kết Dự án ứng dụng kết quả nghiên cứu lai tạo giống bò thịt F1 (BBB lai sind), chương trình cung ứng tinh dịch lợn giống phục vụ công tác thụ tinh nhân tạo và nhân rộng mô hình chế biến, bảo quản phụ phẩm trồng trọt làm thức ăn thô xanh cho chăn nuôi đại gia súc.
Về Tân Khánh những ngày này, chúng tôi được hòa cùng không khí nhộn nhịp của những người chăn nuôi, từ việc cung ứng cám, thuốc thú y, chăm sóc cho đàn gà, rồi cảnh tập nập xe tải đến thu mua. Dọc trục đường từ xóm Hoàng Mai, qua Na Ri, xóm Tranh, Kê…trên những quả đồi bát úp là thấp thoáng chuồng trại lợp proximăng để che mưa nắng cho gà. Những con gà ri sắp đến ngày được xuất bán, lông vàng tươi, mượt mà chỉ nhìn thôi cũng đủ thích mắt.
Người xưa có câu “Giàu nuôi chó, khó nuôi dê”, ý nói nuôi dê rất dễ, không tốn kém, không cần chuồng trại, các vùng núi chỉ cần thả dê sống trên núi đồi mà không tốn thực phẩm. Với giá bán cao, dê hiện là gia súc được nhiều hộ nông dân nuôi để “xóa đói, giảm nghèo”.