Kỹ Thuật Sản Xuất Cua Giống (Phần 4 Và Hết)

V. Ương nuôi cua bột thành cua giống

1. Chuẩn bị ao
Giai đoạn này chỉ nên ương nuôi cua trong ao đất. Cua bột có hình thái giống cua trưởng thành. Cua thích sống ở đáy, (chất đáy cát pha bùn), hoặc bám vào các thực vật thủy sinh, cua bột có thể sống được ở nước độ mặn 15‰ và thấp hơn, ăn các động vật nhỏ và thức ăn chế biến, rong, tảo. Ao ương cua bột lên cua giống có thể xây bên cạnh ao nuôi cua thịt. Ao ương có diện tích 200 đến 500m vuông, sâu 0,8-1,2m. Bờ ao đắp chắc chắn ở giữa để cù lao đất 20% trên diện tích ao, cao hơn mực nước triều cao nhất 0,3-0,5m. Xây 2 cống lấy và thoát nước, có lưới chắn. Trên bờ ao, ở mép trong chắn lưới mùng cao trên 0,7m, chếch về phía trong ao 1 góc 65 độ C. Vệ sinh ao: bón vôi, diệt tạp, bón phân, cho nước vào qua lưới lọc, độ sâu 0,6-0,8m. Ao được chuẩn bị một tuần trước khi cho cua bột xuống.
- Mật độ ương nuôi: 200-300 con/m vuông. Cua bột từ trại giống được vận chuyển đến chó thể bằng túi nhựa nylon có oxy hoặc bằng khay ẩm, tùy khoảng cách giữa trại giống đến ao ương. Độ mặn của ao ương không được sai lệch với trại giống qua 5‰ . Cua bột đem rải đều quanh ao theo số lượng đã tính trước.
2. Cho ăn và chăm sóc
Trong ao ương cua giống có thể gây màu nước cho phù du động vật phát triển làm thức ăn tự nhiên cho cua, nhưng chủ yếu phải cho cua ăn thức ăn chế biến từ các loại bột, cám, thịt cá, tôm, còng, nhuyễn thể xay nhỏ nấu chín. Thức ăn đem rải ven ao. Mỗi ngày cho ăn từ 6-10% trọng lượng cua, chia làm 2 lần: sáng sớm và chiều tối. Số lượng thức ăn tăng dần theo sinh trưởng , tăng trọng của cua. Có thể dùng giai đoạn cho ăn để kiểm tra sức ăn của cua để tăng giảm lượng thức ăn.
Thay nước hằng ngày 20-30% nước, kiểm tra pH, oxy, nhiệt độ, độ mặn, bờ ao, chống mội, xói lở, hỏng rào, bệnh và các dịch hại vào trong ao, ngăn ngừa bắt cắp.
Khoảng 10 ngày cân, đo đánh giá sinh trưởng của cua một lần. Từ 30 đến 35 ngày cua đạt chiều rộng mai 2,5-3,0cm. Trọng lượng 5g. Tỷ lệ sống đạt 40-60%. Cỡ cua này có thể chuyển sang ao lớn để nuôi cua thịt.
Nếu cần cua giống cỡ lớn hơn thì phải san cua ra ao lớn hơn và nuôi mật độ thấp hơn.
Hết!
Có thể bạn quan tâm

Tận dụng những cái thùng nâng giàn quạt nước trong vuông tôm công nghiệp, anh Nguyễn Văn Nguyên (ở Bến Tre) đã cải tiến thành thùng nuôi cua biển. Năm 2009, anh nuôi thử nghiệm 700 thùng cua biển, đạt hiệu quả rất khả quan, thu lợi nhuận gần 50 triệu đồng.

Trong các năm gần đây do sự phát triển nhanh chóng của ốc bươu vàng và sâu bệnh hại cây trồng, dẫn đến tình trạng sử dụng thuốc BVTV ngày một nhiều hơn gây ô nhiễm môi trường nước, làm cho động vật thủy sinh ngày càng cạn kiệt.

Cua biển (Scylla paramamosain) là một trong những đối tượng có giá trị kinh tế và xuất khẩu cao bởi hàm lượng mỡ thấp, protein cao, dồi dào về khoáng chất và vitamin. Con cua được xem là đối tượng nuôi xoá đói giảm nghèo của bà con ngư dân vùng biển.

Cua biển (Scylla serrata) là một loài thủy sản tiềm năng bởi sự tăng trưởng nhanh chóng, được ưa chuộng trên thị trường và giá trị kinh tế của nó. Tuy nhiên, việc nuôi cua biển đòi hỏi nguồn vốn đáng kể cho việc mua giống và nuôi thương phẩm.

Nuôi cua biển đang rất phổ biến tại một số nước châu Á như Bangladesh, Ấn Độ, Thái Lan, Philippine v.v… Cua biển có một nguồn nhu cầu lớn và được giá trên thị trường thế giới. Do cua biển có hương vị khá ngon nên nhiều nước trên thế giới nhập một số lượng lớn để tiêu thụ hàng năm. Kết quả là, một lượng lượng lớn ngoại tệ có thể kiếm được bằng cách xuất khẩu cua.