Hiện tượng vàng lá trên cây có múi

Đây là câu hỏi rất chung, rất tổng quát, do bà con không nói rõ triệu chứng, hoàn cảnh xảy ra, mức độ nặng nhẹ nên rất khó có câu trả lời phù hợp…
Trước hết bà con cần biết rằng, các cây bưởi, cam, chanh, quýt hay quất đều thuộc họ cây có múi.
Vì vậy, các loại bệnh có trên cây này đều có thể phát hiện thấy trên các cây khác.
Hiện tượng vàng lá trên cây có múi ngoài bệnh vàng lá Greening do virus gây ra, rất khó trị, phần vàng lá còn lại có thể chia ra thành 2 nhóm:
(i) Nhóm vàng lá do bệnh lý tạo ra, tức là do nấm, vi khuẩn hay tuyến trùng gây nên;
(ii) Nhóm vàng lá do hiện tượng sinh lý tạo nên, ví dụ do thừa hay thiếu chất dinh dưỡng mà có, ví dụ do thừa sắt, nhôm, măng gan, hay chất độc như H2S, CH4, hoặc axit hữu cơ gây ra.
Bệnh cũng có khi do thiếu Ca, Mg, Bo, Zn hay S gây ra.
Nhiều trường hợp vàng lá do bệnh lý và do sinh lý lại trùng lặp hay trùng hợp lẫn nhau và trở thành nguyên nhân hay hậu quả của nhau.
Khi bị hiện tượng vàng lá, muốn chữa trị có hiệu quả, cần biết được nguyên nhân cụ thể.
Nếu không biết rõ nguyên nhân mà cứ chữa trị thì cũng giống như thầy lang bốc thuốc cầu may mà thôi.
Có một điều rất quan trọng mà có thể là nguyên nhân chính gây ra hiện tượng vàng lá trên nhóm cây có múi, đó là do bộ rễ bị ngập úng hay rễ ở trong tình trạng thừa độ ẩm lâu ngày tạo ra.
Nhóm cây có múi rất cần nước nhưng lại không chịu được bị ngập úng.
Vì ngập úng thì bộ rễ bị yếm khí, chỉ cần sau một thời gian ngắn là rễ bị hại, bị đen, thối, mất chức năng hút thức ăn và nước cung cấp cho cây, cây trở nên thiếu chất, từ đó mà lá bị vàng, dần dần sẽ làm cây yếu ớt rồi chết.
Khi rễ bị hại thì nhiều loại nấm rễ sẽ có điều kiện tấn công làm cây bị yếu nhanh hơn.
Rễ bị thối rữa cũng tạo ra các chất độc trở lại gây hại cho bộ rễ, làm cho tốc độ bị vàng lá nhanh hơn, mà ta tưởng vàng lá do vi khuẩn hay nấm gây ra, bà con tập trung phun thuốc nhưng cây vẫn không phục hồi được.
Theo điều tra của chúng tôi thì ở ĐBSCL và ngay cả một số tỉnh ở miền Bắc hay miền Trung vào mùa mưa cũng thường gặp hiện tượng như vậy. Riêng các tỉnh ĐBSCL, do nền đất thấp, bà con phải lên liếp trồng cây.
Nhưng một phần do đất có thành phần cơ giới nặng, tỷ lệ sét cao, mặt khác nền liếp cũng thấp, vườn cây không được bón phân hữu cơ lại không được xới xáo, nên vào mùa mưa hay mùa nước triều cao (bà con gọi là triều cường), nhiều vườn cây bị ngập kéo dài, bộ rễ cây bị yếm khí do đó rất dễ bị hại.Bón phân cân đối nhất thì vườn cây sẽ cho nhiều quả.
Hiện Cty Bình Điền đã có cặp phân Đầu Trâu rất phù hợp cho cây ăn quả.
Phân Đầu Trâu NPK 20-15-5+TE bón vào thời kỳ từ sau thu trái cho đến trước ra hoa, phân Đầu Trâu NPK 15-5-20+TE bón từ lúc ra hoa cho đến trước khi thu hoạch
Trong phân có chứa các chất đặc hiệu cả Agrotain, Avail và Penac-P nên làm tăng hiệu quả sử dụng, tăng chất lượng trái, năng suất cao, hiệu quả kinh tế cao, sản phẩm đạt tiêu chuẩn an toàn.
Bà con có thể kiểm tra độ ẩm đất bằng cách bốc một nắm đất gần gốc cây rồi nắm tay lại cho chặt.
Khi mở tay ra nếu thấy tay có nước chảy ra, hay ít nhất là đất dính lại chặt mà không bung ra thì đó là trường hợp đất bị thừa ẩm, bà con moi phần rễ cám ra, nếu thấy rễ có màu nâu, đen, bóp thấy rễ bị dập là đúng rễ đã bị hư thối.
Biện pháp chữa chạy cấp bách là vét mương sâu hơn để thoát nước ra khỏi vườn, xới đất quanh gốc lên để 2 - 3 ngày cho hơi nước bốc đi, sau đó bón thêm vôi bột vào quanh gốc, đồng thời pha thuốc nấm như Ridomil Gold tưới vào quanh gốc để diệt bớt nấm phụ sinh gây thối rễ.
Sau 3 - 5 ngày bà con sử dụng một trong các loại phân sau để bón: Ở miền Bắc có phân Đầu Trâu bón lót, bón 400 - 600 gr/gốc.
Ở ĐBSCL và Tây Nguyên cũng có phân Đầu Trâu bón lót A-0, nếu không có thì dùng phân lân nung chảy hoặc DAP Avail, có loại gì sử dụng loại ấy.
Liều lượng bón cho cây mỗi gốc từ 400 - 600 gr (nếu là DAP-Avail) hoặc liều 600 - 800 gr/gốc nếu dùng lân nung chảy hay Đầu Trâu A-0.
Sau khoảng 1 tuần cho đến 10 ngày, bộ rễ non hình thành nhiều, bà con sử dụng phân thúc cho cây.
Ở miền Bắc, bà con dùng Đầu Trâu 13-13-13+TE, bón 300 - 500 gr/cây, tùy tuổi cây, ở ĐBSCL, miền Đông Nam bộ và Tây Nguyên, bà con dùng Đầu Trâu 15-5-20+TE.
Nếu chưa có phân này bà con dùng Đầu Trâu 16-16-16+TE để bón, liều bón 300 - 500 gr/cây tùy tuổi cây và tình trạng dinh dưỡng của vườn cụ thể.
Xử lý kịp thời thì khả năng phục hồi nhanh và có hiệu quả cao.
Để ngừa hiện tượng vàng lá làm rễ bị hại, về lâu dài, khi trồng mới, nhất thiết phải chọn vườn đất thật cao (đặc biệt là vùng ĐBSCL).
Nếu không có đất cao, muốn trồng các cây có múi thì nhất thiết phải lên liếp hay đắp mô thật cao, sao cho sau khi mưa to không có nước đọng lại trong vườn lâu ngày, cần xử lý đất trước lúc trồng, cần bón phân hữu cơ liều cao kết hợp phân lân bón lót liều cao, hàng năm cần xới xáo đất cho thoáng quanh gốc và bồi bùn thêm vào gốc cho cao, trồng mật độ vừa phải, không trồng quá dày và thường xuyên tỉa bớt cành tược, cành bị già cỗi và bị bệnh.
Có thể bạn quan tâm

Chia sẻ tại Hội thảo Chiến lược phát triển cây mắc ca tại Tây Nguyên, Chủ tịch Tập đoàn Him Lam Dương Công Minh nhấn mạnh từ khi du nhập vào Việt Nam khoảng năm 2000, ngành kinh tế mắc ca đã manh nha hình thành khi giá trị kinh tế loại cây trồng được mệnh danh “hoàng hậu của các loại hạt khô” không hề nhỏ.

Hàng trăm tàu cá làm nghề giã cào của ngư dân thành phố bám biển ngày đêm khai thác. Thường từ 0 giờ các tàu cá xuất bến đi khai thác ruốc, đến sáng hoặc trưa cùng ngày cập Cảng cá Quy Nhơn để bán. Mỗi tàu cá khai thác được từ 2 - 7 tạ ruốc, cá biệt có tàu cá khai thác đến hơn cả tấn ruốc.

Theo Ban quản lý dự án Nguồn lợi ven biển vì sự phát triển bền vững (CRSD) tỉnh Phú Yên, trong năm 2015, dự án này tiếp tục thực hiện chương trình Gap theo mô hình nuôi thủy sản an toàn sinh học tại đầm Ô Loan (khu vực các xã An Cư, An Hải, huyện Tuy An).

Địa hình nhiều đồi núi, độ che phủ rừng lớn là điều kiện thuận lợi cho nông dân huyện Sơn Động (Bắc Giang) phát triển đàn ong mật. Để mang lại hiệu quả kinh tế cao, việc xây dựng thương hiệu loại hàng hóa đặc sản này đang được địa phương quan tâm.

Anh Trần Văn Vương - Phó Trưởng Công an xã Ninh Vân kể cho tôi nghe câu chuyện khá lý thú về dê hoang trên núi Hòn Hèo. Thấy tôi hăng hái muốn lên núi tìm dê hoang, anh đã tình nguyện đi cùng. Sau cơn mưa đêm cuối năm, con đường lên đỉnh Hòn Hèo vốn đã gập ghềnh lại càng trở nên khó đi. Tôi và anh Vương gửi xe ở một chòi canh rẫy ngay bìa rừng để ngược lên khu vực thùng Ba Dao (Hòn Hèo) tìm bầy dê hoang.