Chỉ có 36% doanh nghiệp Nhật tại Việt Nam tận dụng được FTA

Ngày 21.10, tại hội thảo "Hiệp định thương mại tự do (FTA) và Hiệp định đối tác toàn diện kinh tế Việt Nam-Nhật Bản (EPA)," theo khảo sát doanh nghiệp Nhật Bản tại châu Á và châu Đại Dương do JETRO thực hiện năm vừa qua cho thấy, tỷ lệ vận dụng FTA, EPA của doanh nghiệp Nhật Bản tại Việt Nam chỉ đạt 36%.
Khi so sánh tỷ lệ vận dụng FTA, EPA của doanh nghiệp Nhật Bản tại Việt Nam so với các nước khác trong khu vực còn kém xa, cụ thể Indonesia là 58,2%; Thái Lan 53,7%; Malaysia 48,9%...
Dây chuyền sản xuất phụ kiện ôtô, xe máy phục vụ thị trường nội địa và xuất khẩu tại Công ty Nissin Manufacturing Việt Nam (100% vốn đầu tư của Nhật Bản) tại Khu Công nghiệp Lương Sơn, Hòa Bình.
Tại hội thảo, các chuyên gia đã cập nhật thông tin mới và giới thiệu những quy định về quy tắc xuất xứ của các FTA, EPA, nhằm hỗ trợ cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam và Nhật Bản vận dụng các Hiệp định này hiệu quả hơn trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, mở rộng thị trường và hoạt động xuất nhập khẩu.
Ông Nguyễn Quan Phúc, đại diện Cục xuất nhập khẩu, Bộ Công Thương, nhấn mạnh quy định về quy tắc xuất xứ trong các FTA, EPA đóng vai trò quan trọng, vì đây là cơ sở xác định hàng hóa nhập khẩu có đủ điều kiện để được hưởng ưu đãi thuế quan hay không.
Mặt khác, quy định về quy tắc xuất xứ còn nhằm đảm bảo sự can bằng hợp lý giữa "thuận lợi hoá thương mại" và "chống gian lận thương mại." Đồng thời, các quy tác trên là công cụ đo mức độ thụ hưởng và tận dụng ưu đãi tại các bên là thành viên tham gia Hiệp định Thương mại tự do.
Bên cạnh đó, thỏa mãn quy định về quy tắc xuất xứ, được hưởng thuế quan ưu đãi, từ đó kích thích hoạt động sản xuất và xuất khẩu.
Tương tự, các chuyên gia thống nhất nhận định, việc vận dụng FTA, EPA của doanh nghiệp trong hoạt động xuất nhập khẩu giữa Nhật Bản và Việt Nam nói riêng, Nhật Bản với khu vực ASEAN nói chung có ý nghĩa rất to lớn.
Đặc biệt, các doanh nghiệp Nhật Bản tại Việt Nam chiếm khoảng 60% xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản, khoảng 20% xuất khẩu sang khu vực ASEAN.
Đồng thời, rất nhiều doanh nghiệp Việt Nam tiếp tục xem xét mở rộng thị trường xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản và ASEAN trong thời gian tới.
Có thể bạn quan tâm

Theo một số nông dân ở Khánh Sơn, năm nay năng suất mì chỉ đạt khoảng 80 - 85% so với năm trước, nguyên nhân chủ yếu do thời tiết thất thường, cây mì vào giai đoạn phát triển, ít mưa nên sản lượng đạt thấp. Ngoài ra, do giá mì dao động ở mức thấp trong 2 năm gần đây nên người dân các địa phương đang có kế hoạch chuyển đổi diện tích trồng mì sang trồng các loại cây trồng khác có hiệu quả kinh tế cao hơn như cây ăn quả, keo...

Nhằm đa dạng con nuôi thủy sản nước ngọt cung cấp cho người tiêu dùng và xuất khẩu, tỉnh An Giang đã tạo điều kiện cho ngư dân, doanh nghiệp đa dạng hóa và mở rộng diện tích nuôi thủy sản nước ngọt, trong đó nhiều nhất là con cá rô phi hiện đang có thị trường xuất khẩu tốt.

Năm nay theo kế hoạch Vĩnh Châu sẽ thả nuôi 550 ha Artemia, dự kiến sản lượng đạt trên 35 tấn trứng. Để đạt được kết quả trên, thời gian qua bằng các nguồn lực, thị xã đã đầu tư hàng chục tỉ đồng để nạo vét lại tuyến kênh Bảy trăm, khơi thông dòng chảy, tạo điều kiện tốt nhất cho bà con làm muối và nuôi artemia.

Khởi nghiệp từ vốn vay mượn, anh Giang Văn Dương (22 tuổi), ngụ ấp 3, xã Đồng Tâm (Đồng Phú - Bình Phước) đã mạnh dạn đầu tư 1,5 tỷ đồng mở trang trại nuôi ong lấy mật. Đến nay, anh Dương đã có 1.000 thùng ong cho thu khoảng 1,5 tỷ đồng mỗi năm.

Cách đây khoảng 10 năm, tại xã Khánh Hòa, các hộ gia đình trồng cam chỉ đếm trên đầu ngón tay. Mặc dù cây cam đã có mặt ở đất Khánh Hòa khá lâu nhưng kỹ thuật chăm sóc, phòng trừ sâu bệnh nhiều gia đình vẫn còn hạn chế. Việc trồng cam thời gian đầu chỉ để có thêm thu nhập cải thiện cuộc sống, còn thu nhập chính của người dân chủ yếu vẫn dựa vào sản xuất nông nghiệp.