Chế độ tưới nước thích hợp nhằm tăng năng suất cây ngô

Nguồn nước
Ở Việt Nam diện tích trồng ngô nhờ nước trời chiếm khoảng trên 70%, diện tích chủ động tưới chiếm khoảng gần 30%. Nguồn nước chính cung cấp cho cây ngô được chia ra làm 2 nguồn chính là nước mưa và nước ao hồ, sông, suối.
Nước mưa: Đây là nguồn nước cung cấp chính cho ngô, ở nước ta lượng mưa hàng năm phổ biến từ 1700 – 2000 mm đủ cho nhu cầu sinh trưởng phát triển của cây ngô, tuy nhiên lượng mưa tập chung theo mùa nên về mùa khô cây ngô không đủ nước để phát triển.
Nước ao, hồ, sông, suối: Đây là nguồn nước cung cấp cho cây ngô một cách chủ động theo sự điều tiết của con người.
Nhu cầu tưới nước của cây ngô
Độ ẩm đất thích hợp để ngô nảy mầm thường trên 65 % độ ẩm tối đa. Độ ẩm thấp, ngô kéo dài thời gian nảy mầm, nhưng độ ẩm cao, quá trình hô hấp của hạt cũng ức chế quá trình nảy mầm. Trong vụ Đông Xuân giữ độ ẩm 70 – 80 % thì chỉ sau 6 ngày ngô đã mọc 100 %, độ ẩm 50 – 60 % là 9 ngày, độ ẩm 30 – 40 % là 12 ngày mới mọc và thời gian mọc kéo dài đến 15 ngày, độ ẩm 100 % sau 8 ngày ngô đã mọc nhưng sinh trưởng của rễ mầm không khoẻ như ở độ ẩm 70 – 80 %.
Khi gieo ngô, đất cần đủ độ ẩm, nếu độ ẩm đất thấp dưới 60 % thì cần phải tưới trước khi gieo bằng phương pháp tưới mưa nhân tạo hay tưới rãnh với khoảng cách bằng khoảng cách giữa hai hàng ngô (0,6 - 0,8 m), rãnh tưới được bố trí theo chiều dài của các hàng ngô để sau khi tưới nước thấm đều vào đất thì có thể cày rạch hàng gieo giữa các rãnh tưới. Trường hợp gieo bằng máy thì sau khi tưới nên bừa lại rồi mới gieo hạt. Lượng nước tưới trước khi gieo thay đổi từ 250 - 350 m3/ha tuỳ theo tính chất đất để độ ẩm đất đạt đến 90 – 100 % độ ẩm tối đa.
Từ khi mọc đến 3 - 4 lá: ngô có khả năng chịu hạn. Nếu ở thời gian này đất có độ ẩm thấp, rễ ngô phát triển xuống sâu hơn, thuận lợi cho sự dinh dưỡng về sau. Hơn nữa đối với vụ Đông Xuân, nhiệt độ không khí còn thấp, ánh sáng ít, khả năng sinh trưởng và tích luỹ chất khô còn chậm, nhu cầu nước của cây ngô còn thấp, do đó không cần phải tưới. Trường hợp hạn kéo dài, trong suốt thời kỳ này không mưa và trước khi gieo độ ẩm đất trên dưới 65 % thì nên tưới vào lúc 3 lá để đảm bảo cho quá trình sinh trưởng dinh dưỡng được bình thường. Lượng nước tưới có thể từ 300 – 400 m3/ha để độ ẩm đất đạt 90–100%.
Thời kỳ 3 - 4 lá đến 7 - 8 lá: ngô bắt đầu sinh trưởng mạnh hơn. Độ ẩm đất thích hợp 70 – 80 %, độ ẩm đất ở thời kỳ này có ảnh hưởng lớn đến sinh trưởng của ngô về sau. Khi độ ẩm đất 50 – 60 % giảm năng suất ít hơn độ ẩm 30 – 40 % hay 90 – 100 %. Điều đó chứng tỏ rằng trong thời kỳ này cây ngô chịu hạn giỏi hơn chịu úng. Nhưng không có nghĩa là không cần nước, mà phải đảm bảo độ ẩm 70 – 80 % ngô mới phát triển bình thường.
Tùy từng thời kỳ phát triển mà cây ngô có nhu cầu tới nước khác nhau
Thời kỳ 7-8 lá đến 13 - 14 lá: Nhu cầu nước và sinh trưởng của ngô tăng dần. Đây là thời kỳ đầu của quá trình phát dục, thời kỳ phân hoá cờ của ngô và cũng là thời kỳ cần cung cấp đầy đủ nước, dinh dưỡng để ngô tăng trưởng về số lượng, tạo điều kiện cho trổ cờ và phun râu tốt về sau.
Trong thời kỳ này ngô dùng khoảng 20 % tổng lượng nước cần trong suốt quá trình sinh trưởng và lượng cần trung bình hàng ngày khoảng 35 – 38 m3/ha. Độ ẩm 70 - 80 % vẫn là giới hạn thích hợp nhất cho ngô ở thời kỳ này. Nếu độ ẩm giảm xuống 50 – 60 % hoặc giữ ở mức chứa ẩm tối đa 100 % thì sẽ gây tác hại lớn đến khả năng phát triển diện tích lá, tích luỹ chất khô và năng suất cuối cùng.
Từ khi ngô 13, 14 lá đến trổ cờ phun râu: Đây là thời kỳ khủng hoảng nước của cây, lượng nước trong thời kỳ này chiếm hơn 60 % tổng lượng nước cần trong suốt quá trình sinh trưởng của nó. Tốc độ tăng trưởng chiều cao cây cũng rất nhanh, trung bình 5-6cm ngày và lượng chất khô tích luỹ khoảng 3 - 3,5 tạ/ha/ngày. Lượng nước cần trung bình hàng ngày cao nhất 65 – 70 m3/ha/ngày. Độ ẩm thích hợp từ 80 – 85 %. Thiếu nước trong thời kỳ này làm giảm năng suất nhiều hơn so với các thời kỳ trước. Đủ nước trong thời kỳ này có tác dụng tốt đến quá trình hình thành các cơ quan sinh sản, rút ngắn thời gian từ trổ cờ đến phun râu, làm cho quá trình thụ phấn thụ tinh được thuận lợi, bắp ngô nhiều hạt và ít bị hiện tượng “đuôi chuột”. Mặt khác, đây cũng là thời kỳ tích luỹ chất khô lớn nhất của cây ngô và có ý nghĩa quyết định đến hàm lượng các chất dinh dưỡng được tích luỹ vào hạt ở thời kỳ sau.
Từ lúc ngô thâm râu đến chín: Nhu cầu nước của ngô giảm dần. Tuy nhiên, đất thiếu độ ẩm thì ảnh hưởng lớn đến quá trình vận chuyển các chất dự trữ vào hạt dẫn đến năng suất kinh tế thấp, tuy năng suất sinh vật học có thể lớn. Ngược lại nếu quá thừa độ ẩm, đất bảo hoà nước hay ngập nước thì quá trình hô hấp của cây ngô tăng lên rất mạnh nhưng quá trình quang hợp và vận chuyển vật chất vào bắp, hạt bị đình trệ, lá xanh trên cây héo nhanh chóng, cây ngô sớm bị chết và giảm năng suất nghiêm khối. Trong trường hợp đất thiếu độ ẩm thì năng suất ngô bị giảm ít hơn so với bị ngập. Giữ độ ẩm đất 50 – 60 % ở thời kỳ này làm giảm 9 % năng suất so với độ ẩm đất 70 – 80 %.
Hệ thống tưới
Hệ thống tưới nước cho ngô chủ yếu sử dụng kênh mương dẫn nước vào ruộng đối với những khu ruộng có địa hình thấp và bằng phẳng. đối với những khu ruộng cao không thể đưa nước vào bằng kênh mương thì có thể dùng hệ thống ống dẫn nước và sử dụng máy bơm nước.
Có thể bạn quan tâm

Nằm trong khu vực đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) với điều kiện tự nhiên thuận lợi, Đồng Tháp có lợi thế về sản xuất nông nghiệp. Từ đó đã hình thành các vùng nông nghiệp chuyên canh mang lại hiệu quả kinh tế cao. Những năm gần đây, bên cạnh việc phát triển nông nghiệp theo hướng sạch, an toàn, chính quyền các địa phương và nông dân cũng đã năng động tìm kiếm thị trường tiêu thụ, hình thành được chuỗi khép kín thông qua mối liên kết “4 nhà”.

Năng suất lúa bình quân đạt 57,3 tạ/ha, tăng 2,1%, sản lượng tăng 1,1%; so với năm 2013. Cây bắp năng suất ước đạt 54,8 tạ/ha, sản lượng 57.746 tấn. So với kế hoạch, năng suất tăng 3,4%, sản lượng tăng 2,1%. Các loại cây trồng ngắn ngày, cây chủ lực như mía và mì đều tăng trưởng đạt kế hoạch về diện tích, sản lượng.

Tuy nhiên, khó khăn lớn nhất hiện nay là nguồn nguyên liệu không ổn định. “Mỗi khi nguồn hàng khan hiếm, ngoài việc phải cạnh tranh về giá với các doanh nghiệp trên địa bàn, công ty phải tổ chức đi mua ở các tỉnh lân cận mới đủ hàng sản xuất, nên chi phí đầu vào đội lên”-ông Quỳnh than.

Cơ sở đóng mới và sửa chữa tàu thuyền Tân An, xã Nghĩa An (TP.Quảng Ngãi), một trong 6 cơ sở được tỉnh duyệt đủ tiêu chuẩn đóng mới, thời điểm này khá nhộn nhịp. Chỉ vào đôi tàu có công suất gần 600CV vừa hoàn thành đóng mới và đã làm lễ hạ thủy, ông Cao Minh Êm, thôn Tân An vui mừng, bảo: “Con tàu cứng cáp lắm.

Trong khi nhiều chủ trang trại, gia trại chăn nuôi gặp khó khăn do thiếu vốn, dịch bệnh và thị trường bấp bênh thì mô hình chăn nuôi lợn của gia đình ông Đào Văn Hiểu, ở xóm Rẫy, xã Đào Xá (Phú Bình) vẫn đứng vững nhờ biết liên kết với doanh nghiệp, áp dụng mô hình chăn nuôi lợn gia công theo kỹ thuật tiên tiến. Tuy mới xây dựng được hơn 2 năm nay, song mô hình đã mang lại hiệu quả rõ rệt.