Chấn Chỉnh Chăn Nuôi Khu Vực Trung Du Miền Núi Phía Bắc

Các tỉnh này cần tập trung vào những con vật nuôi lợi thế và có khả năng xuất khẩu sang thị trường nước ngoài.
Trước những khó khăn của ngành chăn nuôi cả nước, sáng 28/5, tại Cao Bằng, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) tổ chức Hội nghị đánh giá thực trạng ngành chăn nuôi và định hướng, giải pháp phát triển chăn nuôi giai đoạn 2013 - 2015 các tỉnh Trung du và miền núi phía Bắc. Đây là 1 trong 3 hội nghị chuyên đề nhằm tháo gỡ khó khăn cho ngành chăn nuôi ở 3 vùng miền trên cả nước.
Tại hội nghị, đại diện các tỉnh khu vực Trung du miền núi phía Bắc cho rằng, bên cạnh những khó khăn chung như về thị trường, về nguồn vốn, lãi suất và chi phí đầu vào tăng cao…, khu vực này còn phải đối mặt với dịch bệnh tiềm ẩn bùng phát trên diện rộng, gia súc, gia cầm bị chết vì rét đậm rét hại, tình trạng nhập lậu gia súc, gia cầm giá rẻ diễn biến phức tạp... Mặc dù diện tích đất còn nhiều nhưng lại thiếu trang trại chăn nuôi lớn theo hướng công nghiệp, chủ yếu vẫn là chăn nuôi nhỏ lẻ theo hộ gia đình, chuồng trại sơ sài.
Ông Chu Văn Tuyển, Giám đốc Sở NN&PTNT Quảng Ninh cho rằng: “Chăn nuôi nhỏ lẻ, phân tán sẽ có khả năng xảy ra dịch bệnh gia súc gia cầm, mất an toàn vệ sinh thực phẩm và xử lí vấn đề môi trường và không tạo được vùng hàng hóa tập trung, khó có sản xuất theo chuỗi để giảm chi phí giá thành và đem lại lợi nhuận cho người chăn nuôi. Chính vì vậy cần có chính sách về quy hoạch, giải phóng mặt bằng, có quỹ đất sạch dành cho chăn nuôi”.
Thiếu giống trầm trọng cũng là đặc điểm ở khu vực này. Người chăn nuôi thường xuyên phải lấy con giống nhập lậu từ Trung Quốc vì không có khả năng cung cấp giống tại chỗ.
Theo bà Lê Thị Thanh Nhàn, Giám đốc Sở NN&PTNT Lạng Sơn, cùng với những chính sách hỗ trợ cho người chăn nuôi về giống, vốn, kĩ thuật, thì ngành chăn nuôi cũng cần nâng cao hiệu quả quản lí nhà nước.
“Việc quản lí lợi nhuận trong chăn nuôi lâu nay bất cập ở chỗ người sản xuất chịu giá thành cao, nhưng bán sản phẩm rẻ, người tiêu dùng lại phải mua vào với giá đắt. Suy cho cùng là ở khâu trung gian giữa người sản xuất và tiêu dùng chưa quản lí được và cũng chưa có một kiến nghị với Chính phủ để người chăn nuôi đỡ vất vả. Đồng thời, các doanh nghiệp cũng phải quan tâm nhiều hơn đến việc chia sẻ lợi nhuận”, bà Nhàn nói.
Trước những ý kiến của các địa phương, Thứ trưởng Bộ NN&PTNT - Vũ Văn Tám cho rằng, để tháo gỡ khó khăn cho ngành chăn nuôi, trước hết, các tỉnh Trung du miền núi phía Bắc cần tập trung vào những con vật nuôi lợi thế và có khả năng xuất khẩu sang thị trường rộng lớn là Trung Quốc, Lào, Campuchia.
“Trước mắt cần tập trung giải quyết vấn đề giống tại chỗ cho các tỉnh miền núi phía Bắc, hỗ trợ, khuyến khích áp dụng các biện pháp tiến bộ kĩ thuật trong sản xuất thức ăn tại chỗ để nâng hiệu quả sản xuất, giảm giá thành, tăng khả năng cạnh tranh. Tổ chức lại sản xuất chăn nuôi theo hướng lựa chọn những đối tượng nuôi có lợi thế và khả năng cạnh tranh của mỗi tỉnh và toàn vùng để từ đó tổ chức sản xuất cho tốt”, Thứ trưởng Vũ Văn Tám định hướng.
Sau hội nghị này, đầu tháng 6 tới, Bộ NN&PTNT sẽ tiếp tục tổ chức Hội nghị cùng chuyên đề, nhằm nghe ý kiến và tìm giải pháp tháo gỡ khó khăn cho các tỉnh khu vực Đồng bằng sông Hồng và Bắc Trung bộ.
Có thể bạn quan tâm

Chỉ vào đàn heo sữa 14 con vừa được 32 ngày tuổi, bà Nguyễn Thị Xanh ở xã Hành Thịnh (Nghĩa Hành) cho biết: “Mấy hôm nay thương lái cứ ra vào ngắm heo, rồi hỏi mua với giá 750.000 đồng/con nhưng tôi chưa chịu bán. Tôi tính để thêm một tuần nữa, thế nào nó cũng được trên 800 ngàn đồng/con”.

Hiện nay, toàn tỉnh có khoảng 50 làng nghề và ngành nghề sản xuất tập trung, trong đó có 10 làng nghề và ngành nghề truyền thống được UBND tỉnh Quảng Trị công nhận. Một số sản phẩm như nước mắm, chè vằng, tiêu Cùa, rượu Kim Long… đã có thương hiệu thu hút được nhiều khách hàng trong và ngoài tỉnh. Toàn tỉnh có hơn 6.800 lao động làm việc trong các làng nghề và ngành nghề tập trung mỗi năm tạo ra giá trị sản phẩm hàng trăm tỷ đồng.

Trước nhu cầu rau sạch của người tiêu dùng đang ngày càng tăng cao, người trồng rau đã dần nâng cao ý thức canh tác và trình độ thâm canh để sản xuất rau sạch, đáp ứng kịp thời nhu cầu thị trường. Việc trồng rau sạch đã được nông dân trồng quanh năm tạo ra nguồn thu khá ổn định, góp phần nâng cao thu nhập và tạo việc làm thường xuyên, đặc biệt rút ngắn đáng kể thời gian nông nhàn.

Bước đầu cho thấy việc xây dựng mô hình chăn nuôi bò sinh sản ở bản Poọng đã nâng cao kỹ thuật chăn nuôi bò, tạo thêm việc làm và nguồn thu nhập cho người dân.

Đây là địa phương có truyền thống sản xuất rau, củ, quả quanh năm với diện tích và quy mô lớn. Với kinh nghiệm trồng rau hàng hóa, nông dân Hoằng Hợp đã đạt hệ số quay vòng đất bình quân 3,5 lứa/năm, nhiều gia đình đã gieo trồng tới 4 đến 6 lứa rau/năm. Theo tính toán, một năm, mỗi ha đất vùng chuyên canh rau cho tổng thu nhập bình quân từ 150 đến 160 triệu đồng.