Cây Chè Trên Đất Địch Quả

Người dân xã Địch Quả (huyện Thanh Sơn) đã có nhiều cách làm giàu, nhưng hiệu quả hơn cả vẫn là cây chè. Những người cao niên nhất trong xã cũng không biết cây chè cắm chân trên đất này từ bao giờ, còn chè trồng quy mô, thành hàng hóa lớn bắt đầu từ những năm 1980.
Lúc ấy Nông trường Phú Sơn, nay là Công ty liên doanh chè Phú Đa, bắt đầu chuyển đổi từ cây trồng khác sang trồng chè để chế biến chè đen xuất khẩu, những đồi chè quy mô lớn mới hình thành. Vài chục năm qua, trải bao thăng trầm, nhưng cây chè vẫn đã đứng vững và khẳng định hiệu quả trên đất Địch Quả.
Bắt đầu từ chè hộ dân trồng quy mô nhỏ để tiêu dùng, rồi lan rộng ra chè nông trường, chè hộ công nhân, rồi chè của hộ nông dân quy mô lớn cứ theo nhau mãi nhân rộng ra các triền đồi. Dù chưa có sự đánh giá đầy đủ nhưng qua quan sát những đồi chè hai bên đường QL32, đoạn từ giáp xã Thục Luyện lên trung tâm xã Địch Quả có thể coi là vùng chè đẹp nhất trên đất Phú Thọ hiện nay.
Trao đổi về tiềm năng cây chè tại địa phương, đồng chí Hà Văn Thái, Bí thư Đảng ủy xã Địch Quả cho biết: Hơn chục năm qua chè là cây trồng mũi nhọn ở xã. Không chỉ có Công ty liên doanh chè Phú Đa mà địa phương cũng tranh thủ đầu tư từ chương trình nông nghiệp trọng điểm, chương trình dự án phát triển cây chè của tỉnh và nguồn vốn khác để mở rộng diện tích, thâm canh cây chè.
Quan trọng nhất là nhân dân thấy được hiệu quả của cây chè nên rất nhiều hộ trong xã đã thay thế chuyển đổi từ rừng trồng cây nguyên liệu giấy sang cây chè.
Thông qua sự giao thoa của công nhân doanh nghiệp chè và chương trình chuyển giao kỹ thuật của các dự án bà con nông dân đã tiếp thu kỹ thuật trồng, chăm sóc, thu hái chè tiên tiến. Trước đây cây chè ở địa phương chủ yếu là chè giống cũ phục vụ chế biến chè đen, ngày nay chè trồng mới chủ yếu giống chè lai LDP1, LDP2...
Đặc biệt kỹ thuật canh tác trồng, đốn tỉa thu hái đều áp dụng theo kỹ thuật mới. Hàng năm sau thu hoạch chè được đầu tư bón phân, phun thuốc sâu đúng hướng dẫn, đa số diện tích hái bằng máy.
Do vậy cách đây 6-7 năm năng suất chè của bà con địa phương chỉ đạt bình quân 7-8 tấn/ha, nay tăng lên bình quân trên 12 tấn, có nhiều hộ đạt 14-15 tấn/ha; riêng chè của nông trường thuộc Công ty liên doanh chè Phú Đa đạt trên 15 tấn, nhiều lô đạt năng suất 20-22 tấn/ha.
Với năng suất như vậy, giá bán trên dưới 4 ngàn đồng/kg búp tươi mỗi ha trồng chè một năm cho thu nhập ổn định 50-60 triệu đồng. Tuy chưa phải là cao nhưng trong điều kiện sản xuất nông nghiệp, cộng mức chi phí đầu tư cơ bản ban đầu và hàng năm hiện nay mức thu đó tương đối tốt so với mặt bằng chung.
Đến nay trên địa bàn xã đã có gần 335ha chè, trong đó có 325ha chè kinh doanh, mỗi năm thu hoạch trên 4.000 tấn chè búp tươi. Riêng chè của bà con nông dân trong xã có gần 140ha, mỗi năm thu khoảng gần 1700 tấn búp tươi, với giá bán như hiện nay thu nhập của cây chè hàng năm tương đương 1.000 tấn thóc, đây là con số đáng kể với một xã miền núi.
Cây chè ở Địch Quả không chỉ thích nghi môi trường sản xuất nông nghiệp mà còn rất thuận lợi trong tiêu thụ, chế biến. Nằm ở vùng trung tâm vùng chè bên hữu ngạn sông Hồng, nên chè Địch Quả lúc nào cũng tiêu thụ hết, giá đảm bảo.
Ngoài bán cho Công ty Liên doanh chè Phú Đa và Công ty chè Phú Thọ, trong khu vực còn có rất nhiều xưởng chè lớn, nhỏ khác của tư nhân hoạt động, vào vụ thu hoạch thu mua hết chè tươi, giá cả ổn định.
Thấy được hiệu quả cây chè nhiều hộ đầu tư sắm máy hái chè, máy đốn chè, máy phun thuốc... những công đoạn lao động thủ công nặng nhọc, vất vả đã giảm thiểu rất nhiều, tăng năng suất càng tạo cơ hội để cây chè phát triển.
Nhờ cây chè mà đời sống của người dân xã Địch Quả tương đối ổn định. Năm 2013 thu nhập bình quân toàn xã đã đạt trên 15 triệu đồng/khẩu, xã có hàng trăm hộ giàu từ cây chè. Gần đây trên địa bàn đã có hai cơ sở chế biến chè có vốn nước ngoài và tỉnh ngoài đầu tư, càng mở thêm cơ hội để cây chè phát triển ổn định, lâu dài.
Có thể bạn quan tâm

Năm 2013, nuôi tôm nước lợ của cả nước nói chung, các tỉnh phía Nam nói riêng không chỉ phục hồi mà còn được mùa, được giá. Chính từ những thuận lợi này, ngành chuyên môn dự báo từ nay trở đi diện tích nuôi tôm sẽ phát triển mạnh, việc kiểm soát dịch bệnh trên tôm sẽ khó đảm bảo

Tại Đam Rông (Lâm Đồng), đầu năm 2012, dự án “Xây dựng mô hình nuôi cá lăng thương phẩm trong bè tại huyện Đam Rông năm 2012” đã được triển khai. Mặc dầu dự án nói rõ “nuôi cá lăng thương phẩm trong bè” (lồng) nhưng trong thực tế, 2 khu vực nuôi cá lăng đã được triển khai thực hiện đó là nuôi trong ao và nuôi trong lồng (bè). Cụ thể, ở khu vực nuôi ao, đã tiến hành thả 100 con giống cá lăng; ở khu vực nuôi lồng, 80 con giống cá lăng được thả.

Thái Thụy (Thái Bình) có trên 2.000 ha ao đầm nước ngọt và vùng chuyển đổi lúa kém hiệu quả sang nuôi trồng thủy sản. Để giúp bà con đa dạng hóa đối tượng nuôi, Thái Thụy đã xây dựng thành công mô hình “nuôi cá rô phi lai xa dòng Chinchifu thương phẩm trong vùng chuyển đổi nước ngọt”, bước đầu cho hiệu quả kinh tế khá...

Mỹ Xuyên là huyện có địa hình nhiều sông rạch, không xảy ra triều cường lũ lụt, có nguồn nước ngọt, nguồn cỏ và các phụ phẩm nông nghiệp dồi dào rất thuận lợi cho nghề chăn nuôi bò, bò sữa. Trong những năm qua, từ dự án nâng cao đời sống nông thôn, phong trào chăn nuôi bò sữa ở huyện Mỹ Xuyên (Sóc Trăng) đã phát triển mạnh tập trung ở các xã có đông bà con dân tộc Khmer sinh sống như: Đại Tâm, Tham Đôn, thị trấn Mỹ Xuyên, Thạnh Quới... đã góp phần đáng kể vào việc xóa đói giảm nghèo, nhiều gia đình nhờ nuôi bò sữa nay được thoát nghèo vươn lên khá, giàu, thu nhập mỗi năm từ vài chục triệu đồng đến hàng trăm triệu đồng.

Xã Đạ Lây (huyện Đạ Tẻh - Lâm Đồng) là địa phương trồng sắn (khoai mì) khá phổ biến. Tại đây, bà con nông dân đã tận dụng nguồn lá sắn để phát triển mô hình nuôi tằm. Mô hình này mở ra triển vọng mới, giúp nông dân tăng thêm thu nhập.