Cần Định Hướng Cho Người Chăn Nuôi Qui Mô Nhỏ

Gần đây, mô hình nuôi nhốt vịt theo quy mô nhỏ tại hộ gia đình phát triển khá mạnh ở TP Cần Thơ và các tỉnh ĐBSCL. Mô hình này giúp cải thiện thu nhập cho nhiều gia đình ở nông thôn, nhưng cũng phát sinh nhiều mối nguy về dịch bệnh, môi trường…
* Qui mô nhỏ, hiệu quả cao
Trước đây, mô hình gia cầm, chủ yếu là các loại gà và vịt xiêm theo quy mô nhỏ tại gia đình rất phát triển. Gần đây, các loại vịt ta được nhiều gia đình phát triển nuôi theo dạng nhốt chuồng với số lượng phổ biến từ 10 - 30 con, thậm chí có hộ nuôi từ 50 - 70 con theo hình thức làm chuồng nhốt vịt hoàn toàn trên cạn hoặc tận dụng ao, một đoạn kênh rạch gần nhà giăng lưới, làm chuồng nuôi nửa trên cạn, nửa dưới nước.
Bà Nguyễn Kim Cúc, ngụ xã Định Môn, huyện Thới Lai, TP Cần Thơ, cho biết: "Những năm gần đây, gia đình tôi có khi nuôi khoảng 50 con theo dạng nhốt chuồng, không thả chạy đồng như trước. Để tiết kiệm chi phí, tôi tìm chuối cây về xắt nhỏ, trộn với cám làm thức ăn cho vịt. Hình thức nuôi này hiệu quả khá cao, nếu xuất bán vịt có giá, mỗi con vịt có thể cho lợi nhuận trên 100.000 đồng chỉ sau hơn 2 tháng nuôi".
Bà Nguyễn Thị Loan, ngụ ấp Định Hòa A, xã Định Môn, huyện Thới Lai, cho biết: "Tôi tận dụng đoạn sông gần nhà thả nuôi vịt và thấy mô hình này có hiệu quả nên tiếp tục duy trì nuôi khoảng 30 con. Dự kiến, vịt xuất chuồng vào dịp Tết Nguyên đán 2015".
Mô hình nuôi nhốt vịt với số lượng khoảng 15 - 20 con, nhiều hộ gia đình có thể bắt cua ốc, tìm thêm các nguồn thức ăn tự chế cho vịt ăn nhằm tiết kiệm chi phí. Bên cạnh đó, nuôi vịt với số lượng ít, các hộ gia đình cũng không lo thiếu vốn đầu tư và sợ thua lỗ nặng khi gặp phải dịch bệnh hay đầu ra gặp khó.
Mặt khác, hiện có nhiều giống vịt mới, nuôi mau lớn và có số đầu ký trên mỗi con đạt khá cao như: vịt siêu thịt, vịt siêu ngỗng… nên khá hấp dẫn nhiều người dân. Bà Võ Thị Dung, ngụ phường Châu Văn Liêm, quận Ô Môn, cho biết: "Đối với giống vịt siêu ngỗng, chỉ cần nuôi trong 2 tháng 10 ngày có thể xuất bán với mỗi con vịt nặng khoảng 3kg. Nuôi từ 3 tháng trở lên, vịt có thể đạt trọng lượng 4 - 5 kg/con".
* Cần có định hướng
Trước đây nuôi vịt ta chủ yếu theo hình thức nuôi chạy đồng, người nuôi di chuyển đàn vịt đến những ruộng lúa vừa mới thu hoạch để vịt ăn mót lúa đổ, ăn các loại cua, ốc trên đồng…
Nuôi theo hình thức này giúp người chăn nuôi tiết kiệm nhiều chi phí thức ăn nhưng nguy cơ phát sinh và lây lan các loại dịch bệnh trên đàn vịt cũng rất lớn. Hiện nay, nuôi vịt chạy đồng vẫn tồn tại nhưng không còn nhiều thuận lợi so với trước do lượng cá, cua, ốc trên đồng sau các vụ thu hoạch lúa không còn dồi dào nữa.
Người chăn nuôi vịt cũng khó tận dụng nguồn lúa đổ trên đồng để cho vịt ăn do các địa phương thực hiện việc gieo sạ lúa đồng loạt và thu hoạch tập trung trong thời gian ngắn bằng máy gặt đập liên hợp. Điều này khiến nghề nuôi vịt chạy đồng có phần giảm và mô hình nuôi nhốt vịt tại các hộ gia đình có xu hướng phát triển.
Hiệu quả của mô hình nuôi nhốt vịt ta theo quy mô nhỏ tại gia đình đã và đang được khẳng định. Nhiều người tin tưởng, đây sẽ là loại vật nuôi tốt góp phần cải thiện bữa ăn và thu nhập cho các hộ gia đình ở nông thôn. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là mô hình này đang bộc lộ nhiều mối nguy về dịch bệnh và môi trường do người dân làm chuồng nuôi nhốt vịt trên các sông, rạch.
Trong khi đó, vẫn còn một bộ phận cư dân nông thôn sử dụng nước trong sinh hoạt hằng ngày từ các sông, rạch phục vụ cho sinh hoạt. Hơn nữa, do chăn nuôi theo quy mô nhỏ lẻ, phân tán nên dễ làm phát sinh nguy cơ dịch bệnh nguy hiểm trên đàn gia cầm lan rộng, nhất là khi nhiều hộ chăn nuôi nhỏ lẻ chưa quan tâm tiêm phòng vắc-xin phòng bệnh cho đàn vịt như khi nuôi với số lượng lớn.
Từ thực tế đó, đòi hỏi các ngành chức năng cần quan tâm và có định hướng kịp thời cho người chăn nuôi. Đặc biệt, ngành nông nghiệp và các cơ quan chuyên môn cần kịp thời hỗ trợ, hướng dẫn các hộ dân xây dựng các mô hình chăn nuôi vịt theo hướng an toàn sinh học nhằm giảm các tác động xấu đến môi trường và chủ động phòng chống các loại dịch bệnh, nhất là dịch cúm gia cầm.
Bà Nguyễn Thị Kiều ở phường Phước Thới, quận Ô Môn, cho biết: "Hiện nhiều hộ chăn nuôi vẫn còn rất mơ hồ, chưa biết phải tổ chức chăn nuôi vịt thế nào mới đảm bảo an toàn sinh học. Chúng tôi rất cần được sự hỗ trợ của ngành chức năng".
Hiện nay, khi phát triển nuôi vịt nhốt, đa số các hộ dân chưa mạnh dạn đầu tư nuôi số lượng lớn. Chăn nuôi với số lượng nhỏ, rủi ro tại từng hộ nuôi có thể nhỏ, nhưng rủi ro chung vẫn là rất lớn. Đặc biệt là khi vấn đề về vệ sinh môi trường và chủ động phòng chống dịch bệnh chưa được thực hiện tốt.
Ngoài ra, cũng khó kiểm soát nguồn cung và chất lượng sản phẩm, tình trạng thừa hàng dội chợ cũng dễ xảy ra. Đây là những vấn đề ngành chức năng cần quan tâm để có định hướng kịp thời cho người dân trước sự phát triển của những xu thế chăn nuôi mới.
Có thể bạn quan tâm

Anh Vũ cho biết: Đàn gà nhiều, mình tự tiêm phòng cho gà, nên mỗi đợt tiêm phòng hai vợ chồng phải làm việc cật lực cả ngày đêm. Quá trình nuôi mình liên tục quan sát, thấy con gà nào lơ ăn cho tách riêng theo dõi, chữa trị. Khi thời tiết thay đổi, chuyển mùa, tăng cường thức ăn, nước uống giàu vitamin để gà tăng sức đề kháng. Nhờ vậy đàn gà tránh được dịch bệnh, cho trứng đạt tỉ lệ 80% trở lên.

Ngoài ra, sức tiêu thụ thịt heo trên thị trường gần đây vẫn ở mức bình thường, thậm chí có phần yếu do có giá bán cao hơn so với nhiều loại cá, thịt khác. Với nguồn cung dồi dào, cùng xu hướng giảm giá của xăng dầu và nhiều loại thực phẩm tươi sống khác, giới kinh doanh thịt heo dự đoán, giá heo hơi sẽ có xu hướng bình ổn trong thời gian tới, khó biến động tăng mạnh trở lại dù nhu cầu tiêu thụ thịt heo được dự đoán tăng cao vào dịp lễ, Tết cuối năm.

Ông Huỳnh Thanh Hải (thôn 4, xã Hòa Thuận, TP. Buôn Ma Thuột, tỉnh Dak Lak) bắt tay vào xây dựng trang trại nuôi gà từ năm 2011, trên diện tích 1,25 ha đất trồng cà phê già cỗi. Từ 3 nhà lạnh với quy mô 3.500 con/nhà, đến nay ông đã phát triển thành một hệ thống trang trại khép kín với 7 nhà lạnh nuôi gà đẻ trứng; mỗi nhà lạnh có diện tích hơn 500 m2.

Trên cơ sở các kết quả đạt được, thời gian tới, huyện Châu Phú sẽ tiếp tục tuyên truyền, hướng dẫn để bà con nông dân nhân rộng mô hình trên địa bàn huyện. Đồng thời, đưa ra giải pháp cho việc trồng nguồn nguyên liệu (cỏ, bắp non) và tìm đầu ra ổn định cho sản phẩm.

Vào những năm 80 của thế kỷ XX, huyện Thường Xuân có trên 1.000 ha quế, tập trung chủ yếu ở Lâm trường Thường Xuân và rải rác trong các hộ dân. Sau năm 1986, diện tích quế bị khai thác ồ ạt, người dân không quan tâm đến trồng mới, cùng với giá quế bán ra thị trường thấp nên cây quế dần bị phá bỏ.