Cá Da Trơn Kẹt Đường Vào Mỹ
Ngành thủy sản Việt Nam lo sốt vó trước các điều luật về tiêu chuẩn kỹ thuật có tính áp đặt sắp được phía Mỹ thực thi nhằm ngáng đường cá da trơn của chúng ta xuất sang thị trường này
Trao đổi với phóng viên Báo Người Lao Động ngày 6-2, ông Nguyễn Duy Khiên, Vụ trưởng Vụ Thị trường châu Mỹ - Bộ Công Thương, cho biết dự luật ngân sách trợ cấp cho các nông trại vừa được Thượng viện Mỹ thông qua sẽ chuyển chức năng giám sát cá da trơn từ Cơ quan Quản lý dược phẩm và thực phẩm Mỹ (FDA) sang Bộ Nông nghiệp Mỹ (DOC).
Không thể đáp ứng nổi vì quy định thiếu thực tế!
Theo ông Khiên, nếu trước đây FDA chỉ kiểm tra xác suất sản phẩm cá da trơn nhập khẩu của Việt Nam và không tiến hành cấp giấy chứng nhận tiêu chuẩn thì khi dự luật này đi vào thực hiện, DOC sẽ tổ chức kiểm tra từ quy trình sản xuất đến việc đóng gói, xuất khẩu, đặc biệt quan tâm đến việc kiểm tra chất lượng, an toàn vệ sinh thực phẩm tại các cơ sở sản xuất.
Nếu bảo đảm tiêu chuẩn quy định ngang đồng các tiêu chuẩn của mặt hàng này sản xuất tại Mỹ thì phía Việt Nam sẽ được cấp giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn và được phép xuất khẩu. Phía Việt Nam cho rằng đây là quy định thiếu thực tế, đẩy ngành cá da trơn của Việt Nam vào thế bí.
Mỹ và EU là 2 thị trường nhập khẩu cá da trơn (chủ yếu là cá tra) nhiều nhất của Việt Nam. Theo ông Trương Đình Hòe, Tổng Thư ký Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP), trong năm 2013, Việt Nam xuất gần 100.000 tấn cá tra sang Mỹ, đạt giá trị khoảng 300 triệu USD. Cá tra chiếm thị phần lớn tại thị trường này. Nhập khẩu cá tra phi-lê đông lạnh của Mỹ tăng mạnh từ năm 2007.
Đến năm 2012, Mỹ nhập 213,8 triệu pound cá da trơn (1 pound tương đương 0,45359237 kg), tăng 255% so với 60,1 triệu pound của năm 2007. Ngược lại, trong năm 2012, sản xuất cá da trơn nội địa của Mỹ chỉ đạt 300,1 triệu pound, giảm 40% so với năm 2007 (đạt hơn 496 triệu pound).
Năm 2007, thị phần cá tra của Việt Nam chiếm 37%, năm 2012 tăng lên 76%, trong khi thị phần cá da trơn nội địa tại Mỹ giảm. Theo thống kê mới nhất, trong năm 2012, một người Mỹ tiêu thụ bình quân 0,73 pound cá tra nhập khẩu, tăng 105% so với năm 2009. Nguyên nhân là do giá cá da trơn nội địa tại Mỹ tăng cao.
Những số liệu trên cho thấy cá da trơn Việt Nam rất được ưa chuộng tại thị trường Mỹ. Tuy nhiên, dự luật ngân sách trợ cấp cho các nông trại của Mỹ chắc chắn sẽ làm khó cá da trơn của Việt Nam khi xuất khẩu sang thị trường này.
“Phía Mỹ muốn tạo ra rào cản kỹ thuật để hạn chế sự tăng trưởng quá nóng của cá tra Việt Nam chứ hoàn toàn không vì lý do về chất lượng” - ông Lê Chí Bình, Phó Chủ tịch Hiệp hội Nghề nuôi và Chế biến cá tra xuất khẩu tỉnh An Giang, nhận định.
Ông Nguyễn Văn Kịch - Phó Chủ tịch Hiệp hội Cá tra Việt Nam, Tổng Giám đốc Công ty Thủy sản Cafatex - nhận định: “Nếu phía Mỹ áp dụng dự luật mới này thì không có con cá da trơn nào của Việt Nam xuất qua được vì điều kiện họ đưa ra thiếu thực tế. Các quy định nuôi trong môi trường nước như thế nào, bao nhiêu con trên 1 m2, quy định về thú y… rất khắt khe trong khi lợi thế của ngành cá tra nước ta là nuôi tự nhiên, nếu như nuôi trong trang trại như dự luật yêu cầu thì giá thành cao, không thể cạnh tranh nổi.
“Dự luật này không thực tế vì bản thân ngành cá da trơn của Mỹ cũng không đáp ứng được. Phía Mỹ bắt ngành cá da trơn Việt Nam đạt yêu cầu mới cho xuất qua thì xem như họ cấm cửa con cá tra của ta” - ông Kịch phân tích. Cùng quan điểm, ông Nguyễn Duy Khiên đánh giá: Nếu dự luật được đưa vào thực hiện thì các doanh nghiệp Việt Nam hiện tại khó lòng đáp ứng được yêu cầu ngang đồng với phía Mỹ.
Ứng phó cách nào?
Ở Việt Nam, An Giang và Đồng Tháp hiện là 2 tỉnh dẫn đầu khu vực ĐBSCL về diện tích nuôi cũng như sản lượng cá tra xuất khẩu với hơn 1,6 triệu tấn/năm. Ông Nguyễn Văn Dương, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Đồng Tháp, cho biết hiện toàn tỉnh đang duy trì diện tích vùng nuôi cá tra khoảng 1.200-1.400 ha với sản lượng hơn 450.000 tấn/năm.
Nhiều năm qua, hầu hết người nuôi đều áp dụng tốt các biện pháp về quản lý vùng nuôi để bảo đảm chất lượng cho chế biến xuất khẩu và đã được nhiều thị trường chấp nhận. Tuy nhiên, nếu thực hiện ngay theo yêu cầu mới của Mỹ thì sẽ mất không ít thời gian và làm cho chi phí đầu vào của người nuôi tăng cao.
“Chúng ta phải từng bước khắc phục dần các hạn chế trong quá trình nuôi trồng cho đến chế biến xuất khẩu theo hướng bền vững và theo nhu cầu của thị trường. Chỉ có DN xuất khẩu mới có đủ khả năng đầu tư vùng nuôi đạt tiêu chuẩn. Còn những hộ dân nuôi nhỏ lẻ thì chắc chắn sẽ không đạt lợi nhuận, thậm chí thua lỗ nặng” - ông Dương nhận định.
Ông Lê Chí Bình cho rằng những động thái mới từ phía Mỹ chính là dịp để nội bộ ngành thủy sản Việt Nam củng cố, sắp xếp lại “đội hình” xuất khẩu theo nhu cầu thị trường chứ không phải sản xuất xong rồi mới tìm nơi bán hàng. Bởi lẽ từ trước đến nay, nhiều doanh nghiệp cứ đổ xô xuất khẩu sang Mỹ vì kiếm được lợi nhuận cao hơn so với các thị trường khác nên phía Mỹ thường tăng tần suất kiểm tra đối với các vùng nuôi và cả khâu chế biến xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam.
“Những doanh nghiệp nào chưa đủ điều kiện thì nên tìm kiếm thị trường khác chứ không nên quá lệ thuộc vào mỗi thị trường này để bớt gánh nặng chi phí. Về lâu dài, chúng ta cần phải thay đổi về quy trình quản lý vùng nuôi cũng như tuân thủ nghiêm ngặt trong quá trình chế biến xuất khẩu theo hướng bền vững” - ông Bình nói.
Ông Nguyễn Duy Khiên cho biết Bộ Công Thương đã có thư gửi đến Mỹ phản đối những điều kiện trong dự luật vì tính chất không công bằng của nó. Tuy nhiên, theo ông Khiên, quyết định cuối cùng vẫn phụ thuộc lớn vào phía Mỹ vì đó là quyền của họ.
Không đáng lo (?!)
Trái với nỗi lo của các doanh nghiệp và các hiệp hội, ông Phạm Anh Tuấn, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Thủy sản - Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, cho rằng không nên quá lo lắng về vấn đề này dù khá phức tạp. Theo ông Tuấn, trước đây FDA quản lý cá tra, cá basa chỉ thuần túy về mặt chất lượng, nếu chuyển việc ấy sang DOC thì có nghĩa là DOC sẽ giám sát và quản lý sản phẩm theo chuỗi, từ các điều kiện sản xuất cho đến tiêu dùng, vì thế sẽ phức tạp hơn nhiều. Điều này đòi hỏi chúng ta phải có cách để ứng phó.
“Thực ra, việc tiếp cận sản xuất sản phẩm theo chuỗi, theo quy trình thực hành nuôi trồng thủy sản tốt, chúng ta đã khuyến khích người dân và doanh nghiệp thực hiện bấy lâu nay theo các bộ tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP. Nếu tính tổng diện tích nuôi trồng, tổng sản lượng cá tra, cá basa của Việt Nam hiện nay thì hoàn toàn đủ để đáp ứng nhu cầu xuất khẩu sản phẩm chất lượng, đáp ứng đủ các yêu cầu sang thị trường Mỹ.
Vì vậy, dự luật này của Mỹ cũng sẽ không thể gây khó khăn cũng như không ảnh hưởng quá lớn hay làm đảo lộn đến ngành sản xuất cá tra, cá basa của Việt Nam. Chúng ta cần có các điều chỉnh về mặt quản lý, về tổ chức xuất khẩu, chứng nhận cho phù hợp với tình hình mới mà thôi” - ông Tuấn nhận định.
Có thể bạn quan tâm
Tuy nhiên, Thứ trưởng lưu ý, hiện cả DN lẫn nông dân đều lo lắng là dịch bệnh trên thủy sản (chủ yếu trên tôm nước lợ) như đốm trắng, gan thận… gây thiệt hại và ảnh hưởng tới mục tiêu XK. Do đó, việc Ban chỉ đạo Phòng chống dịch bệnh thủy sản đi vào hoạt động là một bước để hướng tới kiểm soát hoạt động nuôi trồng, chế biến thủy sản an toàn, gia tăng giá trị XK.
Năm 2010 xã Na Sang, huyện Mường Chà có 68% hộ nghèo. Không trông chờ, ỷ lại vào sự hỗ trợ của Nhà nước, nhiều hộ dân đã mạnh dạn chuyển đổi cây trồng, nhiều diện tích lúa kém hiệu quả sang trồng dứa, đậu tương, cao su… Đến nay, Na Sang đã có nhiều đổi thay, tỷ lệ hộ nghèo giảm còn trên 40%.
Hơn 1 tháng trở lại đây, trên địa bàn huyện Mường Ảng xuất hiện nhiều trận mưa lớn, gây thiệt hại về tài sản và hoa màu của người dân. Trong đó, mưa lũ đã làm 125m kênh thủy lợi tại các xã: Ẳng Cang, Ẳng Tở, Mường Lạn, Ngối Cáy bị hư hỏng; 1km kênh mương bị vùi lấp; hơn 650m3 đất, đá sạt xuống các tuyến giao thông trên địa bàn.
Ông Đỗ Thái Hùng, Bí thư chi bộ ấp Bình Thuận, xã Tam Bình (Cai Lậy, Tiền Giang) cho biết: "Trái sầu riêng rải vụ năm 2014 đang đạt giá kỷ lục, gần 100.000 đ/kg. Sau khi trừ chi phí đầu tư, nhà vườn thu lãi khoảng 80% so với giá bán. Hiệu quả của việc SX trái cây rải vụ đã rõ.
Cụ thể, tôm chân trắng loại 60 con/kg đang được thương lái thu mua với giá 116.000 đ/kg; loại 70 con/kg có giá 112.000 đ/kg; loại 90 con/kg có giá 100.000 - 104.000 đ/kg; tôm sú loại 20 con/kg đang ở mức giá 260.000 - 270.000 đ/kg, tôm sú loại 30 con/kg giá 225.000 - 230.000 đ/kg, tăng bình quân khoảng 20.000 đ/kg so với cuối tháng 5/2014.