Báo Động Ô Nhiễm Thuốc BVTV Trong Nuôi Tôm
Theo ông Phạm Minh Sang, PGĐ Trung tâm Kiểm định và Khảo nghiệm thuốc BVTV phía Nam, ngày 27/12/2011, Đoàn kiểm tra đánh giá ô nhiễm môi trường do dư lượng thuốc BVTV tại các vùng nuôi trồng thủy sản tập trung ĐBSCL do Thứ trưởng Bộ NN-PTNT Nguyễn Thị Xuân Thu dẫn đầu, đã đến làm việc tại 2 tỉnh Sóc Trăng và Bạc Liêu. Tại đây, đoàn đã đi khảo sát thực địa, lấy một số mẫu nước và bùn lắng rồi giao cho Trung tâm này tiến hành phân tích tồn dư thuốc BVTV. Có 7 loại thuốc BVTV được chọn để phân tích tồn dư trong các mẫu nước và bùn, gồm: Cypermethrin, Permethrin, Deltamethrin, Endosulfan, Chlorpyrifos-Ethyl, Profenofos và Fipronil. Đây là những loại thuốc được sử dụng khá phổ biến ở ĐBSCL (trừ Endosulfan là thuốc cấm sử dụng) và độc đối với động vật thủy sinh.
Kết quả phân tích cho thấy tình hình ô nhiễm thuốc BVTV rất đáng lo ngại, nhất là ở nguồn nước nuôi tôm. Toàn bộ 8 mẫu nước được phân tích đều có dư lượng Cypermethrin ở mức từ 0,016 đến 0,032 µg/l. Đây là mức dư lượng quá cao, vì theo ông Trần Quốc Việt, Trưởng phòng Thí nghiệm Trung tâm về môi trường (Viện Môi trường Nông nghiệp), Cypermethrin là chất cực độc đối với động vật giáp xác, chỉ cần có trên 0,005 ppb (0,005 µg/l) trong ao nuôi là tôm đã chết. Ngoài loại thuốc BVTV nói trên, các mẫu nước đều có dư lượng với những loại thuốc BVTV khác vượt quá xa mức cho phép như Permethrin (2 mẫu), Chlorpyrifos (3 mẫu) và Fipronil (3 mẫu). Các mẫu bùn ít phát hiện dư lượng hơn, nhưng trong số 13 mẫu bùn đem xét nghiệm thì có 3 mẫu dư lượng Cypermethrin 0,005 đến 0,108 µg/l, 2 mẫu có dư lượng Permethrin từ 0,009 đến 0,018 µg/l.
Từ kết quả phân tích trên, TS Nguyễn Văn Hảo, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản 2, nhận xét rằng mẫu nước có dư lượng Cypermethrin thấp nhất được lấy ở điểm cầu Mỹ Thanh (Sóc Trăng). Đây là chỗ gần biển mà có dư lượng tới 0,016 µg/l là quá lớn. Càng vào sâu trong nội đồng, dư lượng thuốc BVTV trong nước sông càng cao. Bởi thế, đã có thể hiểu vì sao người nuôi tôm ở những vùng này cứ phàn nàn rằng vì sao họ không dùng bất cứ loại thuốc BVTV nào trong việc xử lý ao tôm mà tôm vẫn chết bởi hoại tử gan. Vì với dư lượng Cypermethrin có sẵn trong nước sông như thế thì đã đủ để gây hoại tử gan, khiến cho tôm chết liền.
Do đó, kết quả phân tích này là một sự cảnh báo rất lớn cho người nuôi tôm ở ĐBSCL. TS Hảo cho rằng Bộ NN-PTNT nên tổ chức lấy mẫu ở diện rộng hơn, qua đó có thể đánh giá được mức độ tồn dư thuốc BVTV trên quy mô rộng nhằm có những cảnh báo kịp thời cho người nuôi tôm ở ĐBSCL. Còn theo PGS.TS Lê Đức (Khoa Môi trường, ĐH Khoa học Tự nhiên Hà Nội), các tỉnh Sóc Trăng, Bạc Liêu nuôi tôm đã lâu, nuôi liên tục, nên các ao nuôi đã quá tải, chỉ cần một sự cố nhỏ là đủ để gây thiệt hại lớn cho con tôm
Theo Thứ trưởng Bộ NN-PTNT Nguyễn Thị Xuân Thu, nguy cơ ô nhiễm môi trường nước trong vụ tôm năm nay ở ĐBSCL là rất lớn. Sắp tới, Bộ NN-PTNT sẽ tiếp tục cho lấy mẫu kiểm tra, đánh giá lại môi trường nước ở các tỉnh khác thuộc vùng ven biển ĐBSCL, vì đã có những thông tin cho thấy các tỉnh Kiên Giang, Bến Tre, Trà Vinh…, cũng đã phát hiện dư lượng Cypermethrin trong nước. Từ đó, Bộ NN-PTNT sẽ đưa ra những cảnh báo và hướng dẫn kịp thời cho người nuôi tôm cách phòng ngừa, cải tạo lại ao nuôi để tránh bị thiệt hại xảy ra.
Cũng theo Thứ trưởng Nguyễn Thị Xuân Thu, Bộ NN-PTNT sẽ rà soát lại danh mục các loại thuốc BVTV có ảnh hưởng xấu tới nuôi trồng thủy sản. Tuy nhiên, khi xác định được các loại thuốc BVTV có ảnh hưởng xấu tới thủy sản, thì cũng không dễ đưa chúng ra ngoài danh mục thuốc BVTV được phép sử dụng, vì có những loại thuốc đang có tác dụng rất tốt trong việc phòng trừ sâu rầy trên cây trồng mà hiện chưa có thuốc thay thế. Vì thế, cần phải xác định ngưỡng dư lượng các loại thuốc BVTV có thể gây hại cho thủy sản để có giải pháp phù hợp.
Một vấn đề đang được đặt ra là hiện tại chúng ta chưa có một hệ thống quan trắc, cảnh báo môi trường nước ở ĐBSCL. Theo Thứ trưởng Nguyễn Thị Xuân Thu, Tổng cục Thủy sản đang xây dựng đề án này, nhưng nhanh nhất thì phải 2 năm tới mới hoàn thành. Do đó, các địa phương không thể ngồi chờ mạng lưới này mà nên chủ động tổ chức các điểm quan trắc cảnh báo bằng các nguồn kinh phí khác nhau: kinh phí trung ương, kinh phí địa phương, kinh phí nghiên cứu khoa học… Đồng thời, nên huy động chính người nuôi tôm tham gia vào những công việc đơn giản như lấy mẫu nước, đo hàm lượng ôxi hòa tan, đo nhiệt độ…
Có thể bạn quan tâm
Theo báo cáo của Cục Quản lý chất lượng nông - lâm sản và thủy sản (Bộ Nông nghiệp và PTNT), 6 tháng qua, kiểm tra lấy mẫu 832 mẫu thủy sản nuôi, chỉ phát hiện 4 mẫu thủy sản có dư lượng hóa chất vượt giới hạn tối đa cho phép tại khu vực Nam bộ, giảm so với năm 2013.
Trước đây cả gia đình anh Trần Văn Thắng ở khu trang trại Đầm Cói, phường Hội Hợp (Vĩnh Yên) chỉ trông chờ vào mấy sào ruộng, thời tiết thuận lợi được mùa thì cũng chỉ đủ ăn. Nếu chỉ trông vào mấy sào ruộng thì quanh năm chỉ bán mặt cho đất, bán lưng cho trời không biết đến khi nào mới thoát nghèo.
Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, đến năm 2015, vùng Đồng bằng sông Cửu Long sẽ chuyển đổi 112.000 ha trồng lúa sang các loại cây trồng khác và đến năm 2020, tổng diện tích đất trồng lúa sẽ chuyển đổi sang các loại cây trồng khác là 204.000 ha.
Hiện, chất lượng gạo của Việt Nam kém là do cách làm ăn chụp giật của các thương lái, trộn lẫn các loại gạo cao cấp thấp cấp với nhau. Điệp khúc được mùa mất giá , nông dân bỏ ruộng vẫn tiếp diễn do các bộ, ban ngành đang bỏ mặc nông dân.
Ông Sí Trung Kiên, Phó Trưởng phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Bát Xát cho biết: Năng suất dưa chuột trung bình đạt 280 tạ/ha. Vụ dưa chuột năm nay, kế hoạch huyện giao là 36ha, nhân dân trồng được 43,7 ha, đạt 121,4% kế hoạch.