Xử Lý Đáy Ao Nuôi Thủy Sản Bằng Chế Phẩm BIOF Nâng Cao Hiệu Quả Nuôi Cá

Trước thực trạng nguồn nước đang bị ô nhiễm nghiêm trọng, nhiều hộ dân đã học hỏi kinh nghiệm, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật để cải tạo đáy ao...
Hiệu quả bước đầu
HTX Thủy sản sạch chất lượng cao Xuân Nẻo ở xã Hưng Đạo (Tứ Kỳ) được thành lập năm 2006, có 45 xã viên, với diện tích 53 ha. Trước đây, xã viên của HTX thường nuôi các loại cá truyền thống như trôi, trắm, mè theo phương pháp thủ công nên chất lượng cá không cao. Ao nuôi bị ô nhiễm do không được thay nước thường xuyên, cá bị chết, ảnh hưởng đến kinh tế của nhiều hộ.
Ông Phạm Văn Phục, Chủ nhiệm HTX Thủy sản sạch chất lượng cao Xuân Nẻo cho biết: “Năm 2012, HTX thử nghiệm sử dụng chế phẩm xử lý đáy ao nuôi thủy sản (BIOF) ở 9 ha. Nhờ đó, đáy ao không còn tảo độc, nước sạch hơn, cá không bị chết, phát triển tốt, giảm thiểu ô nhiễm môi trường, tiết kiệm chi phí thức ăn. Nhận thấy hiệu quả rõ rệt, năm nay, HTX sử dụng chế phẩm BIOF thêm ở 37 ha”.
Tính ra mỗi năm, HTX chi hơn 312 triệu đồng/ha để mua thức ăn, thuốc phòng bệnh, xử lý môi trường, cải tạo ao, dầu bơm nước… giảm 11 triệu đồng/ha so với diện tích nuôi cá không sử dụng chế phẩm BIOF; năng suất mỗi ha đạt 13 - 14 tấn cá, thu hơn 400 triệu đồng/ha, cao hơn 25 triệu đồng/ha. Nước ao hiện nay có màu xanh nõn chuối, nhiều tảo, cá phát triển tốt. Do đó, HTX cũng đã nuôi thêm nhiều loại cá chất lượng như diêu hồng, rô phi đơn tính...
Bà Nguyễn Thị Đậu ở thôn Phí Xá, xã Cẩm Hoàng (Cẩm Giàng) có 2 mẫu ao nuôi cá rô phi và cá truyền thống. Trước đây, bà Đậu thường rắc phân tươi trực tiếp xuống ao. Mặc dù phân tươi cung cấp nguồn hữu cơ cho cá nhưng cũng mang mầm bệnh và nhiều độc tố, ảnh hưởng đến môi trường sống của cá.
Từ đầu năm nay, được HTX Dịch vụ nông nghiệp xã giới thiệu ứng dụng chế phẩm BIOF xử lý đáy ao nuôi thủy sản, bà Đậu làm đúng theo quy trình, phân chuồng phơi khô ủ với vôi bột, trộn đạm và lân Lâm Thao, sau đó cấy vi sinh vật hữu ích, ủ trong vòng 1 tháng.
Đến khi thu hoạch cá xong, phơi đáy ao cho khô, sau đó rắc 3 lần chế phẩm này xuống đáy. Bước đầu cho thấy cá trong ao phát triển tốt. Bà Đậu cho biết: “Cán bộ của Trung tâm Ứng dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật (Sở Khoa học và Công nghệ) thường xuyên về kiểm tra tiến độ ủ chế phẩm”.
Cần tăng cường chuyển giao công nghệ
Dự án “Ứng dụng công nghệ sinh học sản xuất chế phẩm xử lý đáy ao nuôi thủy sản (BIOF) tại tỉnh Hải Dương” được thực hiện trong 2 năm 2012 - 2013, thuộc Chương trình “Hỗ trợ ứng dụng và chuyển giao tiến bộ khoa học, công nghệ phục vụ phát triển kinh tế - xã hội nông thôn và miền núi giai đoạn 2011 - 2015”. Từ năm 2012 đến nay, trên địa bàn tỉnh ta đã có 141 hộ nuôi thủy sản ở 10 huyện, thị xã, gồm: Ninh Giang, Thanh Miện, Kinh Môn, Tứ Kỳ, Cẩm Giàng, Thanh Hà, Gia Lộc, Nam Sách, Bình Giang và Chí Linh sử dụng chế phẩm sinh học BIOF. Năm 2012, Trung tâm Ứng dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật mua giống vi sinh vật tại Công ty CP Công nghệ sinh học cung cấp cho các hộ.
Đầu năm 2013, trung tâm tiếp nhận công nghệ sinh học sản xuất giống vi sinh vật hữu ích, phục vụ sản xuất chế phẩm BIOF cho các hộ nuôi thủy sản trong tỉnh. Từ đầu năm đến nay, trung tâm sản xuất được 2,1 tấn vi sinh vật hữu ích, đã cấp hết cho các hộ để ủ thành chế phẩm BIOF.
Trung tâm hỗ trợ 100% giống vi sinh vật, lân, đạm và tập huấn cho nông dân. Phó Giám đốc Trung tâm Ứng dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật Vũ Văn Tân cho biết: “Sử dụng chế phẩm BIOF để xử lý đáy ao nuôi thủy sản đã giúp cho môi trường ao nuôi không bị ô nhiễm, sản phẩm bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm. Đặc biệt là không có tình trạng cá chết như trước đây. Thời gian tới, trung tâm tiếp tục sản xuất vi sinh vật hữu ích phục vụ nhu cầu của nông dân”.
BIOF được tạo ra từ các chủng vi sinh vật hữu ích ủ với phân chuồng, lân, đạm và vôi bột; là chế phẩm sinh học dùng để xử lý đáy ao nuôi thủy sản. Trong quá trình ủ, vi sinh vật có tác dụng khử mùi phân chuồng, khi rắc xuống ao sẽ sinh sản sinh vật hữu ích làm thức ăn cho cá.
Xử lý đáy ao nuôi bằng chế phẩm BIOF giúp cho ao nuôi luôn sạch, tạo nguồn thức ăn tự nhiên, nâng cao chất lượng thủy sản và hạn chế ô nhiễm môi trường.
Có thể bạn quan tâm

Huyện Yên Minh vừa phát động phong trào sản xuất cây vụ Đông năm 2014. Theo kế hoạch, huyện triển khai gieo trồng 3.600 ha cây rau, đậu các loại, tăng gấp 5 lần so với vụ Đông năm 2013. Cụ thể: Gieo trồng 2.800 ha cây rau màu; trên 450 ha đậu; 100 ha khoai tây; 210 ha khoai lang.

Chiếm hơn 80% thị phần trên thế giới, do đó cá tra được xem là sản phẩm “độc quyền” của Việt Nam trên thương trường quốc tế. Song, vấn đề đáng buồn là nghề nuôi và xuất khẩu cá tra ngày càng đi vào ngõ cụt, bởi giá cá bấp bênh càng sản xuất càng thua lỗ. Vì sao cá tra lại rơi vào tình cảnh khốn đốn như vậy...

Trong 5 năm qua, kinh tế nông nghiệp, nông thôn tỉnh ta tiếp tục có bước phát triển. Cơ cấu sản xuất trong nông nghiệp, nông thôn tiếp tục chuyển dịch theo hướng tích cực xuất hiện nhiều gia trại, trang trại, cánh đồng mẫu lớn mang lại thu nhập cao. Kết quả đó có sự đóng góp quan trọng của phong trào nông dân thi đua sản xuất, kinh doanh (SXKD) giỏi do Hội Nông dân (HND) các cấp phát động trong những năm qua.

Dựa trên những dự báo về tình hình khí hậu thời tiết trong năm, trong vụ mà ngành Nông nghiệp và PTNT tỉnh xây dựng khung thời vụ thích hợp, áp dụng các biện pháp kỹ thuật liên hoàn trong sản xuất đối với từng loại cây trồng. Trên cơ sở đó, UBND các huyện, thị xã, thành phố đã chỉ đạo, điều hành sản xuất một cách hợp lý.

Việt Nam là quốc gia xuất khẩu nông sản hàng đầu thế giới thế nhưng có một nghịch lý là người nông dân luôn phải đối mặt với nỗi lo thường trực về sự bấp bênh của đầu ra sản phẩm. Được mùa mất giá, được giá mất mùa luôn là nỗi lòng kéo dài nhiều năm qua của người nông dân.