Vì Lòng Nhiệt Huyết
Lên xã Suối Cát, huyện Cam Lâm (Khánh Hòa) tìm gặp KNV, ông Phó Chủ tịch xã bảo: "Cán bộ khuyến nông đang ở nhà thu hoạch bầu. Muốn gặp thì xuống nhà riêng, thỉnh thoảng có công việc ông ấy mới lên xã".
Để gặp ông Phạm Đình Thùy, KNV xã Suối Cát, tôi phải vào sát chân núi Bà Đen, cách trụ sở ủy ban xã 5 km. Ông Thuỳ bảo: "Hôm nay anh gặp được là may đấy, chứ mấy hôm rồi tôi phải vào làng dân tộc Raglai hướng dẫn bà con trồng lúa nước. Việc bề bộn, làm hết việc ở xã, tôi phải tranh thủ về cho lợn ăn , bởi cuộc sống của gia đình trông cả vào trang trại này. Làm KNV mỗi tháng chỉ được 830.000 đồng, ngoài ra không còn khoản thu nào khác".
Thu nhập chẳng là bao, nhưng trong hợp đồng với Trung tâm Khuyến nông- Khuyến ngư Khánh Hoà thì công việc của ông rất nhiều, như thu thập thông tin, theo dõi dịch bệnh, tuyên truyền, hướng dẫn nông dân áp dụng TBKT, giới thiệu hộ đủ điều kiện để xây dựng mô hình trình diễn…
Diện tích xã Suối Cát rất lớn, có 3 thôn là đồng bào dân tộc Raglai nên công tác khuyến nông của ông Thuỳ càng vất vả hơn, vì trình độ thâm canh của bà con còn thấp, đi lại khó khăn. Để xây dựng mô hình trình diễn lúa nước, ông Thuỳ đã phải ngày đêm bám đồng, bám ruộng, cầm tay chỉ việc...
Được đánh giá là người xây dựng câu lạc bộ khuyến nông mạnh, ông Trần Nho, KNV xã Ninh Quang, TX Ninh Hoà (Khánh Hòa) có công rất lớn trong việc đưa TBKT vào SX. Ông Nho tâm đắc nhất là việc đã giúp người dân thay dần tập quán canh tác, từ sạ lúa với mật độ rất dày (200- 240 kg lúa giống/ha) xuống còn 120- 140 kg/ha. Nhờ đó mà chi phí SX giảm, dịch bệnh cũng ít hơn. Để có được kết quả này, ông Nho đã trường kỳ làm mô hình sạ thưa hết vụ này qua vụ khác để bà con nhìn thấy cái lợi mới chuyển đổi.
CLB khuyến nông xã do ông Nho vận động thành lập với 50 thành viên tham gia và duy trì hoạt động được 11 năm nay. CLB hoạt động rất hiệu quả. Hàng tháng ông đều tổ chức sinh hoạt để phổ biến TBKT, giống cây, con mới. Các thành viên cũng trao đổi việc SX để đúc rút kinh nghiệm.
Ông Nho nói: Tôi tham gia KNV đã 14 năm, nay quá tuổi lục tuần, lòng nhiệt huyết còn, nhưng trình độ có hạn; nhiều khi không lĩnh hội hết được TBKT về phổ biến lại cho bà con. Giờ rất muốn nghỉ làm khuyến nông, nhưng xã chưa tìm được người thay, lớp trẻ thì chẳng ai chịu làm. Thử hỏi với khoản thu nhập mỗi tháng chưa được 1 triệu đồng, trong khi mỗi công lao động phổ thông từ 100.000- 150.000 đồng/ngày, làm sao thu hút được lớp trẻ vào làm?
Đến cuối năm 2011, tỉnh Khánh Hoà có 119 KNVCS, 36 CLB khuyến nông. Do thu nhập bèo bọt nên đa số các KNV đều là cán bộ HTXNN hoặc cán bộ xã kiêm nhiệm. Theo ông Hồ Mộng Hùng, Phó Chủ nhiệm HTXNN Diên Phú (huyện Diên Khánh) kiêm KNVCS thì cán bộ nông nghiệp xã kiêm nhiệm KVN có nhiều thuận lợi. Đây là những người có kiến thức chuyên môn, nói được bà con nghe. Tuy nhiên ông Đào Đình Cương, Trung tâm KN- KN tỉnh Khánh Hoà thì cán bộ kiêm nhiệm cũng có mặt trái, bởi bận công việc nên sao nhãng khuyến nông.
Cũng theo ông Cương, đa số các KNV ở Khánh Hoà trình độ thấp, không được đào tạo qua trường lớp; KNVCS có trình độ văn hoá cấp 3 chiếm 46%, còn lại mới học hết phổ thông cơ sở. Đặc biệt ở các xã miền núi trình độ KNV rất hạn chế. Do KNV không được đào tạo qua trường lớp nên tiêu chí ký hợp đồng của Trung tâm KN- KN Khánh Hoà chủ yếu dựa vào năng lực các hộ SX giỏi và người có kinh nghiệm trong hoạt động khuyến nông.
Để nâng cao chất lượng đội ngũ khuyến nông, mới đây UBND tỉnh Khánh Hoà đã quy định: KNV, CTV khuyến nông phải tốt nghiệp THPT trở lên đối với các xã, thôn đồng bằng, tốt nghiệp THCS đối với xã thôn miền núi.
Cầm tay chỉ việc
Theo chân các cán bộ KNVCS thuộc địa bàn huyện Thống Nhất (Đồng Nai) đến thăm các mô hình mới được hỗ trợ chuyển giao TBKT, chúng tôi được chứng kiến hàng loạt những khu vườn ca cao, tiêu, điều… đang phát triển tốt, quy mô SX bài bản. Anh Nguyễn Văn Bộ, KNV kiêm PCT Hội Nông dân xã Hưng Lộc vui vẻ tâm sự: “Làm cán bộ khuyến nông cơ sở, điều quan trọng nhất là phải tâm huyết với nghề. Bởi hiện nay chế độ, phụ cấp dành cho cán bộ KNV ở nhiều địa phương còn thấp. Nếu không yêu nghề thì khó lòng yên tâm công tác. Điều chúng tôi mong muốn nhất là chuyển giao TBKT cho bà con áp dụng vào thực tế thành công".
Theo anh Bộ, thường đội ngũ KNV trong huyện đều là người kiêm nhiệm thêm công việc nên bản thân mỗi KNV đều phải rất nỗ lực, tích cực trong quá trình “tác nghiệp” mới có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Ông Phạm Văn Lê, Trạm trưởng Trạm Khuyến nông huyện Thống Nhất (Đồng Nai) cho biết: Toàn huyện có 10 xã, với 20.950 ha đất SX; mỗi xã có một KNV phụ trách, tỷ lệ bình quân khoảng 16.000- 17.000 người/KNV. Thực tế ở một số địa bàn xã lớn phải cần 2 KNV mới đảm trách tốt khối lượng công việc. Nhưng nguồn kinh phí trợ cấp còn hạn chế nên phải chọn giải pháp tăng cường điều động KNV hỗ trợ những địa phương vào mùa vụ.
Thực tế ghi nhận từ đội ngũ KNV ở Thống Nhất, họ đã được tham gia các lớp tập huấn khuyến nông, tham quan học tập mô hình trong, ngoài tỉnh; đồng thời cùng cán bộ kỹ thuật khuyến nông tỉnh, huyện chỉ đạo thực hiện các mô hình khuyến nông lâm ngư triển khai ở địa phương mình phụ trách.
Qua các buổi tập huấn kỹ thuật, nhiều hộ gia đình đã từ bỏ được tập quán cũ, dần dần hình thành được những mô hình vườn cây, trang trại quy mô lớn. Tuy nhiên, việc “cùng nông dân ra vườn” cũng có bất cập. Cụ thể theo phản ánh của một số nhà vườn địa phương, do sự "không cân bằng" giữa kiến thức của KNV với kinh nghiệm SX truyền thống của bà con nhà vườn, nên nhiều khi đôi bên không đồng nhất quan điểm.
Có đợt tập huấn chuyên đề kỹ thuật trồng thâm canh ca cao, nhiều nhà vườn yêu cầu phải mời được các chuyên gia, hay các nhà khoa học đầu ngành thì mới hào hứng tham dự. Lý giải điều này, anh Lộc Văn Quang, KNV xã Bàu Hàm 2 (Thống Nhất) chia sẻ: “Suy nghĩ của các nhà vườn như vậy cũng rất thực tế, vì cây ca cao hiện vẫn là loại cây trồng mới mang lại hiệu quả cao. Do vậy, mọi thông tin đều rất nhạy cảm, đối với bản thân mỗi KNV không phải lĩnh vực gì cũng giỏi để tư vấn, hướng dẫn kỹ thuật nên cũng rất thông cảm với bà con".
Theo anh Quang, tham gia công tác khuyến nông từ năm 2003 đến nay không ít lần anh gặp phải những “yêu sách” khó tính của người dân. Tuy nhiên, anh cũng không ngại học hỏi thêm và sẵn sàng chia sẻ cùng bà con bằng tất cả những kinh nghiệm tích lũy của mình. "Mặc dù chỉ nhận được khoản trợ cấp ít ỏi, chi phí xăng xe đi lại cũng không đủ, nên bản thân tôi đã nhiều lần mạnh dạn đề xuất về Trạm Khuyến nông huyện tăng cường thêm lực lượng về hỗ trợ; nhất là vào mùa thời vụ nhiều việc", anh Quang nói.
Có thể bạn quan tâm
Qua nhiều năm, ông Võ Văn Vân (KP. Đông, phường Vĩnh Phú, TX.Thuận An - Bình Dương) thử nhiều mô hình nông nghiệp khác nhau từ trồng cây ăn trái, đến chăn nuôi… nhưng đều không mang lại hiệu quả. Chỉ khi quyết định nuôi cá tai tượng, ông mới thực sự thoát nghèo.
Trong tháng 2/2013, diện tích nuôi trồng thuỷ sản (ở nước ngọt và nước lợ) toàn tỉnh Thừa Thiên – Huế đạt hơn 570 ha, tăng 11,2% so cùng kỳ năm trước.
Cá bống bớp là loài cá nước lợ, thuộc họ cá bống đen, thân hình trụ tròn, mắt nhỏ, mõm tầy, có nguồn dinh dưỡng cao, giá trị xuất khẩu lớn. Cá bống bớp đã được nhiều địa phương tổ chức nuôi song đến nay chỉ có vùng nuôi mặn lợ của huyện Nghĩa Hưng (Nam Định) là nuôi được cá bống bớp với quy mô lớn. Nghề nuôi cá bống bớp ở Nghĩa Hưng khởi phát từ xóm Chùa, xã Nghĩa Thắng khoảng trước năm 1990. Mặc dù điều kiện tưới tiêu nước ở đây chưa được quy hoạch nhưng năng suất nuôi cá bống bớp đã đạt 4 - 6 tấn/ha…
Trong nhiều năm qua, năng suất, sản lượng lúa ở vùng ĐBSCL không ngừng tăng lên nhờ sự liên kết 4 nhà trong sản xuất lúa. Bà con nông dân ngày càng thích nghi và biết ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật trong việc sản xuất, nhân giống lúa tạo ra năng suất, sản lượng vụ sau cao hơn vụ trước. Năm 2012, sản lượng lúa toàn vùng ĐBSCL ước đạt 24,6 triệu tấn, tăng 1,1 triệu tấn so năm 2011, đưa Việt Nam trở thành nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới với sản lượng hơn 7,2 triệu tấn, đạt trị giá hơn 3,2 tỉ USD. Lúa đông xuân 2012 - 2013 đang vào vụ thu hoạch được đánh giá là vụ lúa trúng mùa, năng suất bình quân ban đầu trên 7 tấn/ha. Đạt được kết quả đó là do nông dân thường xuyên quan tâm sử dụng giống lúa mới, giống lúa chất lượng cao.
Đây là mô hình nuôi heo áp dụng công nghệ lên men từ quần thể các vi sinh vật sống để xử lý chất thải của vật nuôi, làm cho môi trường thông thoáng, giúp đàn heo ăn nhiều, lớn nhanh. “Nuôi heo không tắm” - cách gọi nôm na này đang lan truyền nhanh trong người dân Hậu Giang. Đây là mô hình nuôi thí điểm đầu tiên, với những phát hiện khá thú vị khi tận dụng các nguồn phụ phẩm ở ĐBSCL, hứa hẹn mở ra hướng chăn nuôi hiệu quả ở ĐBSCL