Trở thành tỷ phú nhờ chăn nuôi bò sinh sản

Sau khi lập gia đình, anh Đôn được bà ngoại cho mượn 8 công đất (8.000m2) để trồng mía. Liên tiếp nhiều vụ, giá mía luôn ở mức thấp nên thu nhập không đủ sống, gia đình 4 miệng ăn (vợ chồng anh Đôn và 2 người con) phải nhờ vào sự hỗ trợ của cha mẹ. Do vậy, anh Đôn luôn nung nấu ý chí phấn đấu vươn lên. Năm 2004, thấy nguồn rơm tại địa phương nhiều và người dân thường xử lý bằng cách đốt để làm vệ sinh đồng ruộng, anh quyết định nuôi bò. Được ông bà ngoại cho mượn 5 triệu đồng, anh mua 2 con bò cái giống và nhận nuôi rẻ một con bò cái. Nhờ chăm sóc cẩn thận, đàn bò của anh phát triển thuận lợi.
Trong những năm 2008 - 2010, giá bò xuống thấp nên nhiều người dân bán bò, chuyển sang loại hình chăn nuôi khác, nhưng anh Đôn vẫn “chung thủy” với nghề nuôi bò. Anh vay thêm vốn, tuyển chọn bò giống và tham gia thực hiện dự án “Nâng cao chất lượng đàn bò bằng phương pháp thụ tinh nhân tạo” do Hội Nông dân xã phát động. Cùng thời điểm này, anh tham dự các lớp tập huấn chăn nuôi (thuộc đề án đào tạo nghề cho lao động nông thôn) do Hội Nông dân kết hợp với ngành chức năng tổ chức.
Kiến thức học hỏi được cùng với kinh nghiệm tích lũy qua nhiều năm đã giúp anh nâng cao tay nghề, chăm sóc đàn bò tốt hơn (không phải nhờ cán bộ thú y xã, kể cả việc đỡ đẻ trong lúc bò mẹ sinh con). Anh Đôn tâm sự: “Trong chăn nuôi, tôi chú ý theo dõi sát đàn bò của mình. Đồng thời, chịu khó học hỏi thêm kinh nghiệm qua các phương tiện thông tin đại chúng về kỹ thuật chăn nuôi, thuốc phòng bệnh, con giống, thức ăn, giá cả… để có hướng xử lý thích hợp”.
Đến nay, anh Đôn đã phát triển đàn bò được 22 con (trong đó có 12 con nái giống), xây dựng được chuồng trại, sân phơi thông thoáng và đầu tư trồng được 8.000m2 cỏ mật nước. Nhờ nuôi bò sinh sản, anh đã sang nhượng thêm được đất, xây nhà và nuôi 2 con ăn học.
Thời gian rảnh, anh hỗ trợ kỹ thuật chăn nuôi bò hoặc đỡ đẻ cho bò (không lấy tiền) cho nhiều hộ dân trong xã. Liên tục trong nhiều năm liền, anh được bình chọn là nông dân sản xuất giỏi các cấp và đạt danh hiệu Nông dân sản xuất, kinh doanh giỏi cấp tỉnh tiêu biểu năm 2014. “Anh Đôn là một nông dân chí thú làm ăn và chịu khó học hỏi kinh nghiệm chăn nuôi. Tại xã, anh nhiệt tình tham gia đóng góp xây dựng các công trình phúc lợi địa phương, tận tình hỗ trợ cho bà con nông dân những lúc gặp khó khăn”, ông Nguyễn Duy Phúc - Chủ tịch UBND xã Châu Hưng cho biết.
Có thể bạn quan tâm

Theo Đề án Thí điểm tổ chức khai thác, thu mua, chế biến, tiêu thụ cá ngừ đại dương theo chuỗi được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn công bố, sản lượng cho phép khai thác cá ngừ đến năm 2016 của 3 tỉnh Khánh Hòa, Phú Yên và Bình Định sẽ đạt 69.000 tấn, trong đó cá ngừ vây vàng mắt to đạt 19.000 tấn, cá ngừ vằn 50.000 tấn.

Giá heo hơi giảm do gần đây nguồn cung heo hơi có xu hướng tăng mạnh so với trước do thời gian qua giá heo hơi đứng ở mức cao đã kích thích người dân tái bầy phát triển chăn nuôi heo. Dù giá heo hơi giảm nhưng nhiều người chăn nuôi vẫn có mức lời tương đối khá khi xuất bán heo hơi vào thời điểm này mức lời trên dưới 500.000 đồng/ con heo khoảng 100kg.

Chất lượng tôm giống luôn là vấn đề khó đối với lĩnh vực nuôi thủy sản, để chuẩn bị cho vụ nuôi mới 2015, ngành Nông Nghiệp Sóc Trăng đang tập trung mọi biện pháp để khống chế tôm giống chất lượng kém nhập về địa phương, do Sóc Trăng lệ thuộc giống tôm các tỉnh nhập về trên 85%.

Theo Chi cục Thủy sản tỉnh, diện tích cá nuôi chủ yếu là cá lóc, cá rô, cá trê, cá tra, sặc rằn… trên địa bàn tỉnh từ 10.658ha năm 2013, giảm xuống còn 8.038ha năm 2014, kéo theo sản lượng cá giảm khoảng hơn 6.000 tấn các loại. Nguyên nhân diện tích sụt giảm là do giá cá năm 2013 không cao, cộng thêm giá thức ăn đứng ở mức cao nên người nuôi không có lãi, làm cho hộ nuôi giảm đáng kể.

Tình hình nuôi ổn định, không có dịch bệnh xảy ra. Hiện nay, toàn tỉnh có 151 cơ sở sản xuất tôm giống, chủ yếu sản xuất giống tôm thẻ chân trắng và tôm sú. Nhìn chung, trong năm 2014, tình hình sản xuất, kinh doanh tôm giống trên địa bàn tỉnh khá thuận lợi, chất lượng tôm giống được giữ vững. Năm 2014, tổng diện tích mặt nước nuôi tôm nước lợ là 852,5 ha.