Trở Ngại Từ Việc Sử Dụng Đệm Lót Sinh Học Balasa N01

Chế phẩm Balasa N01 là một trong những tiến bộ khoa học - kỹ thuật đã được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn công nhận và được người chăn nuôi cả nước biết đến, nhất là trong lĩnh vực chăn nuôi gà, heo.
Lợi thếChăn nuôi heo trên đệm lót sinh học Balasa N01 ở tỉnh đã được nông dân quan tâm và ứng dụng nhiều bởi lợi ích đem lại của nó. Việc sử dụng đệm lót sinh học cho chăn nuôi heo đã góp phần làm giảm thải tối đa nguy cơ ô nhiễm và hiệu quả tốt đối với môi trường nhờ hệ vi sinh vật có lợi giúp phân hủy gần như triệt để chất thải. Từ đó làm giảm mùi hôi, bảo đảm môi trường sống có lợi cho vật nuôi và an toàn cho sức khỏe con người.
Ngoài ra, sử dụng đệm lót sinh học Balasa N01, nông dân không phải tắm cho heo nên trong chuồng trại rất ít ruồi muỗi và không có nguồn nước thải ra môi trường, chuồng trại được đảm bảo vệ sinh sạch sẽ giúp ngăn chặn dịch bệnh bùng phát như lở mồm long móng, dịch tai xanh trên heo...
Đệm lót sinh học Balasa N01 còn có ưu điểm khác như không phải thay dọn phân thường xuyên giúp giảm nhân công lao động và tiền điện, nước nên tiết kiệm chi phí sản xuất, chi phí thuốc thú y để điều trị bệnh, làm giảm giá thành và tăng hiệu quả sản xuất, tạo cơ hội phát triển chăn nuôi ngay ở nơi dân cư đông đúc mà tránh được những mâu thuẫn nảy sinh do chăn nuôi gây ra.
Môi trường đệm lót sinh học còn tạo điều kiện cho heo được vận động nhiều, không bị stress. Điều đó giúp giảm tồn dư kháng sinh trong các sản phẩm chăn nuôi; sản phẩm có độ vệ sinh an toàn thực phẩm rất cao, chất lượng tốt, được người tiêu dùng ưa chuộng.
Và những bất cập
Mặc dù có nhiều ưu điểm khi áp dụng chăn nuôi heo bằng đệm lót sinh học Balasa N01 nhưng hiện mức áp dụng chưa được phổ biến do có nhiều nông dân chưa biết, chưa tiếp cận được kỹ thuật làm đệm lót hoặc bởi những nhược điểm khác...
Trở ngại mà người chăn nuôi gặp phải khi thực hiện đệm lót sinh học dùng cho chăn nuôi heo trước hết là phải thay đổi tập quán chăn nuôi. Do quen với cách chăn nuôi truyền thống nên người chăn nuôi bê tông chuồng trại nên không dễ phá bỏ, cải tạo để phù hợp với cách mới. Việc nuôi heo với mật độ thưa nên chưa tận dụng tối đa quỹ đất.
Đệm lót mùn cưa sau một thời gian dùng bị nén chặt gây khó khăn cho việc xới tơi hoặc khô quá tạo nên môi trường nhiều bụi khiến đàn heo dễ bị bệnh đường hô hấp. Mặt khác, vấn đề truyền thông đã được chú trọng nhưng chưa đáp ứng yêu cầu của người chăn nuôi. Việc tiếp cận kỹ thuật làm đệm lót sinh học cho người chăn nuôi chưa thuận lợi, nhất là các hộ chăn nuôi ở vùng sâu, xa.
Có thể bạn quan tâm

Nghề đánh bắt tôm nhí (tôm hùm con) từ lâu nay được biết đến là một trong những nghề có thu nhập "khủng" của ngư dân vùng biển. Song, để có nguồn thu nhập đó là điều không đơn giản. Có đi, nghe và thấy mới hiểu được những những khó khăn của ngư dân trong những đêm trắng mưu sinh trên biển "săn lộc trời"!

Sự chuyển biến đó là kết quả thực hiện các quyết định của Chính phủ về một số chính sách khuyến khích ngư dân khai thác hải sản vùng biển xa, và hiện nay là triển khai Nghị định 67 về phát triển thủy sản nhằm thúc đẩy sản xuất, ổn định đời sống ngư dân gắn với bảo vệ vững chắc chủ quyền an ninh biển đảo. Là kết quả khai thác lợi thế điều kiện tự nhiên để nuôi trồng và sản xuất tôm giống, cá nước ngọt, cá lồng bè trên biển.

Để nghề nuôi tôm trên địa bàn phát triển một cách bền vững, mang lại hiệu quả và lợi ích lâu dài, năm 2013 - 2014 Trung tâm Khuyến nông - Khuyến ngư tỉnh đã thực hiện nuôi tôm chân trắng theo mô hình VietGAP tại Móng Cái. Bước đầu mô hình đã mang lại hiệu quả kinh tế, mở ra hướng đi mới cho nghề nuôi tôm của thành phố.

Năm 2015, ngành Nông nghiệp và PTNT phấn đấu tăng diện tích nuôi trồng thủy sản lên 5.800ha; sản lượng đạt 8.000 tấn, chú trọng nghiên cứu ứng dụng tiến bộ khoa học về giống, thức ăn, chế phẩm sinh học; quy trình kỹ thuật nuôi trồng, phòng trừ dịch bệnh thủy sản theo hướng nâng cao năng suất, chất lượng…

Theo tính toán của các hộ, việc sử dụng đệm lót sinh học vào chăn nuôi không những giảm thiểu ô nhiễm môi trường, dịch bệnh mà còn giúp người dân tiết kiệm được 15% chi phí về điện, nước, công dọn chuồng trại, tăng trọng con nuôi nhanh, khoảng 10 - 15% so với chăn nuôi theo phương thức truyền thống.