Trại Bò Ông Xuân

Ông Đào Văn Xuân ở xã Quang Lãng (huyện Phú Xuyên, TP Hà Nội) là người đi đầu phát triển chăn nuôi bò thịt.
Sau khi TP có chủ trương cấm đốt gạch, ông Xuân bắt tay vào san ủi đất để trồng cỏ, xây trang trại nuôi bò.
Đến nay sau gần 2 năm vật lộn với công việc, ông đã có một trang trại quy mô diện tích khoảng gần 7 ha với tổng đàn 110 con bò, xung quanh là bãi cỏ xanh mướt rộng ngút tầm mắt.
Về công việc cụ thể, ông Xuân nói sẽ đi theo 2 hướng nuôi bò sinh sản và vỗ béo bò thịt. Đơn giản ông nghĩ ông cha ta ngày xưa nuôi bò chỉ chăn thả ngoài đồng, lấy công làm lãi thì nay có vốn đầu tư sẽ nuôi bò để làm giàu. Sau thời gian vừa xây dựng chuồng trại, vừa bắt bò về nuôi ông Xuân đã có đôi chút kinh nghiệm với nghề.
Ông chia sẻ, nuôi bò sinh sản phải chọn giống tốt, ngoại hình đẹp (bò lai Sind và bò Brahman) cho khả năng sinh sản tốt, dễ nuôi, ít bệnh tật. Hiện ông có khoảng trên 60 bò cái nền, nhiều con đang chửa và một số con đã sinh bê.
Với phương thức nuôi vỗ béo ông thường bắt giống bò chất lượng cao như Droghmater, BBB, Brahman, lai Sind vì bò lớn nhanh, cho chất lượng thịt tốt, được người tiêu dùng ưa chuộng. Ông nuôi khoảng 30 bò vỗ béo có chế độ chăm sóc nuôi dưỡng riêng...
Nuôi bò vỗ béo trong 4 tháng, tổng chi phí khoảng trên dưới 30 triệu đồng/con (bao gồm giống, thức ăn, công chăm sóc nuôi dưỡng, phòng chống dịch bệnh…) sau khi trừ chi phí sẽ có lãi khoảng 2,5 - 3 triệu đồng/con; bình quân lãi 400 - 600 ngàn đồng/tháng/con. Nuôi bò sinh sản từ 9 - 10 tháng, giá bán bình quân khoảng 18 - 20 triệu đồng/con, sau khi trừ chi phí, lãi được 500 ngàn đồng/con/tháng.
Ông khẳng định đây là con số thực tế ông đã hạch toán, theo dõi chi tiết thời gian qua để quyết định mở rộng quy mô nuôi trong thời gian tới. Với lợi nhuận trên khi nuôi 100 con sẽ cho thu khoảng 50 triệu đồng/tháng, như vậy 1 năm lãi từ 500 - 600 triệu đồng.
Ông Xuân phấn đấu tới đây trang trại của mình sẽ có khoảng gần 300 con bò; tranh thủ sự quan tâm giúp đỡ của ngành nông nghiệp để có quy trình chăn nuôi chuẩn; đồng thời xây dựng thương hiệu cho sản phẩm của mình, đảm bảo được đầu ra ổn định, bền vững; áp dụng tốt kỹ thuật chăn nuôi để giảm giá thành...
Ông chia sẻ những khó khăn trong nghề mà mình gặp phải như chất lượng giống bò, giá giống, thức ăn tinh không ổn định, vốn đầu tư... Chia sẻ đó của ông cũng chính là những mong muốn chính đáng của những nhà đầu tư làm trang trại hiện nay.
Thời gian qua ông Xuân được tiếp nhiều ban, ngành, cán bộ cùng bà con đồng nghiệp đến trang trại để chia sẻ kinh nghiệm. Đây cũng là những động viên khích lệ kịp thời để ông đi đến thành công hơn. Với sự quan tâm hơn nữa của các cấp, các ngành, sự đồng thuận của người chăn nuôi, trang trại chăn nuôi bò của ông Xuân sẽ nhanh được nhân rộng.
Có thể bạn quan tâm

Dậu Dương là xã thuần nông của huyện Tam Nông (Phú Thọ) có phần lớn diện tích ruộng cạn đã được chuyển đổi sang trồng hoa màu, cây ăn quả. Cây táo lai được trồng từ lâu ở đây, mùa này dưới gốc táo, hoa màu vẫn xanh tốt nhờ sự năng động của nông dân, biết tận dụng diện tích đất trồng cây ăn quả để tránh lãng phí.

Để tăng nhịp độ nhập khẩu các mặt hàng nông sản, Nga áp mức thuế ưu đãi khoảng 0,8%, thấp hơn rất nhiều so với mức trung bình 13,2% trước khi gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Đây được xem là “cơ hội kép” để Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu (XK) thủy sản vào Nga

Nghề nuôi lươn trong những năm gần đây phát triển mạnh trên địa bàn thị xã Tân Châu nói riêng và tỉnh An Giang nói chung. Tuy nhiên, tình hình bệnh trên lươn nuôi thương phẩm diễn biến ngày càng phức tạp đã gây không ít khó khăn cho việc định hướng và phát triển nghề nuôi trồng thủy sản của địa phương.

Theo báo cáo của Cục Chăn nuôi, sản xuất chăn nuôi năm 2014 tăng trưởng khá cao, ước tính tăng 4- 5% so với năm 2013. Trong đó, chăn nuôi lợn tăng gần 3%, gia cầm khoảng 5%, bò sữa khoảng 12% và thức ăn chăn nuôi khoảng 6%. Giá vật tư đầu vào không tăng, trong khi sản phẩm đầu ra luôn ở mức cao, lợn nạc bình quân trong năm từ 47.000- 52.000 đồng/kg, ngành chăn nuôi nhất là chăn nuôi lợn, bò sữa, trứng gia cầm có lời khá lớn.

Trong đó, có 9 cơ sở nuôi cá tra thương phẩm (tổng diện tích 69,15ha) được chứng nhận GlobalGAP/ASC; 2 cơ sở sản xuất giống cá tra (hơn 6ha) được chứng nhận GlobalGAP, 3 cơ sở nuôi cá tra thương phẩm (hơn 8ha) được chứng nhận VietGAP, 1 cơ sở nuôi cá tra thương phẩm (3ha) được chứng nhận BMP.