Trang chủ / Tin tức / Mô hình kinh tế

Tôm nước lợ Đồng Bằng Sông Cửu Long cấp thiết nâng cao năng lực sản xuất, tiêu thụ, xuất khẩu

Tôm nước lợ Đồng Bằng Sông Cửu Long cấp thiết nâng cao năng lực sản xuất, tiêu thụ, xuất khẩu
Ngày đăng: 22/07/2015

Tăng trưởng nóng

Theo số liệu thống kê tốc độ tăng trưởng nuôi tôm nước lợ vùng ĐBSCL không ngừng tăng cả về diện tích, sản lượng. Diện tích nuôi tôm nước lợ năm 2014 là 699.725 ha (ĐBSCL chiếm 91%), tăng 1,13 lần so với năm 2010, bình quân tăng 3,12%/năm. Trong đó, diện tích nuôi tôm sú 604.130 ha (ĐBSCL chiếm 93,73%) giảm 1,2% so với năm 2010, bình quân giảm 0,3%/năm; diện tích nuôi tôm thẻ chân trắng (TTCT) 95.594 ha (ĐBSCL chiếm 74,35%), tăng 13,04 lần so với năm 2010, bình quân tăng 90,03%/năm. Sản lượng nuôi tôm nước lợ năm 2014 đạt khoảng 661.074 tấn (ĐBSCL chiếm 80,61%), tăng 1,5 lần so với năm 2010, bình quân tăng 10,59%/năm.  Sản lượng tôm sú 269.711 (ĐBSCL chiếm 85,46%), giảm 16,79% so với năm 2010, bình quân giảm 4,49%/năm; sản lượng TTCT đạt 391.363 tấn (ĐBSCL chiếm 71,15%), tăng gấp 3,32 lần so với năm 2010, bình quân tăng 35%/năm.

Đặc biệt, về kim ngạch xuất khẩu tôm năm 2014 đạt 3.952,9 triệu USD, chiếm 50,45% tổng kim ngạch xuất khẩu thủy sản, tăng 1,56 lần so với năm 2010, bình quân tăng trưởng 17,04%/năm (2010 - 2014). Mặt hàng tôm sú đạt 1.385,5 triệu USD, chiếm 35,05%, mặt hàng TTCT đạt 2.310,5 triệu USD chiếm 58,45. Tôm nước lợ tạo việc làm cho hơn 1,5 triệu người (ĐBSCL chiếm trên 90%).

Đối diện nhiều thách thức

Tăng trưởng các chỉ tiêu kinh tế ngành tôm năm sau luôn cao hơn năm trước nhưng chất lượng tăng trưởng còn nhiều hạn chế, thể hiện trên nhiều mặt.

Cơ sở hạ tầng thủy lợi, điện, giao thông… phục vụ nuôi tôm nước lợ chưa được đầu tư thích đáng. Hiện, hạ tầng thủy lợi được đầu tư chủ yếu là phục vụ trồng lúa; hầu hết các vùng nuôi tôm chưa có hệ thống cấp, thoát nước riêng, chưa có hệ thống xử lý nước thải, hệ thống giao thông và điện chưa được đầu tư, chủ yếu tận dụng từ các công trình thủy lợi của ngành nông nghiệp dẫn đến nguồn nước không đảm bảo, gây ô nhiễm môi trường, dễ làm phát sinh và lây lan dịch bệnh.

Khả năng cung ứng tôm giống sạch bệnh cho người nuôi còn rất thấp, khoảng 50%.

Thực tế lâu nay, người nuôi tôm còn khó khăn trong tiếp cận vốn, thiếu vốn sản xuất, nguồn vốn vay tín dụng còn khó khăn, lãi suất còn cao. Chưa kể, các rào cản kỹ thuật, thương mại của thị trường nhập khẩu tôm ngày càng chặt chẽ, yêu cầu an toàn thực phẩm cao, truy xuất nguồn gốc sản phẩm.

Đặc biệt, thể chế chính sách cần thiết cho quy hoạch còn thiếu, nhất là chưa có quy hoạch đầy đủ vùng nuôi tôm nước lợ.

Cơ cấu sản phẩm chế biến cũng chưa hợp lý, xuất khẩu chủ yếu ở dạng sơ chế nên giá trị gia tăng thấp. Sản phẩm chất lượng chưa cao, thiếu tính cạnh tranh, giá thường thấp hơn sản phẩm cùng loại của các nước trong khu vực 5 - 10%;

Nâng cao giá trị gia tăng để phát triển bền vững

Để tôm nước lợ ĐBSCL phát triển bền vững, thời gian tới, cần thiết phải thực hiện tốt nhiệm vụ quản lý nhà nước về hoạt động sản xuất, chế biến và xuất khẩu tôm nước lợ vùng ĐBSCL theo hướng nâng cao giá trị gia tăng.

Theo đó, về hệ thống văn bản quản lý, quy hoạch sản xuất, chế biến và xuất khẩu tôm nước lợ cho các tỉnh này, cần rà soát và điều chỉnh quy hoạch chi tiết nuôi và chế biến, tiêu thụ tôm ở 8 tỉnh, thành phố vùng ĐBSCL phù hợp quy hoạch tổng thế phát triển nuôi tôm đến năm 2020.

Về giám sát và quản lý hoạt động sản xuất và tiêu thụ tôm nước lợ, việc thành lập Ban chỉ đạo sản xuất, chế biến và xuất khẩu tôm điều phối hoạt động sản xuất và tiêu thụ tôm trong vùng ĐBSCL là điều cần thiết.

Về hạ tầng, kỹ thuật, cần gấp rút xây dựng mới 3 khu sản xuất tôm tập trung tại các tỉnh Cà Mau, Bạc Liêu và Sóc Trăng theo quy hoạch hệ thống nghiên cứu, sản xuất và cung ứng giống thủy sản đến năm 2020 đã được phê duyệt.

Một trong những vấn đề cốt yếu nữa là tổ chức lại sản xuất theo hướng thành lập các tổ hợp tác; tạo mối liên kết chuỗi hữu cơ giữa nhà máy sản xuất thức ăn, tổ hợp nuôi tôm và doanh nghiệp chế biến xuất khẩu có sự tham gia của nhà quản lý và các hiệp hội nhằm phát triển nuôi tôm bền vững.

Nhanh chóng cấp phép hoạt động cho các cơ sở sản xuất, chế biến và tiêu thụ tôm nước lợ  vùng ĐBSCL; tiến tới áp dụng tiêu chuẩn VietGAP cho tất cả các vùng nuôi tôm tập trung (trong quy hoạch) ở ĐBSCL.

Và cuối cùng, yếu tố không thể thiếu đó là các đơn vị của Bộ NN&PTNT, Bộ Công Thương cần có giải pháp xây dựng cơ chế xúc tiến thương mại đủ mạnh để mở rộng thị trường, tăng chủng loại hàng. Có như vậy tôm nước lợ vùng ĐBSCL mới tạo được thế cạnh tranh với thị trường quốc tế.


Có thể bạn quan tâm

Ngành Thủy Sản Vượt Khó, Đạt Mức Tăng Trưởng Cao Ngành Thủy Sản Vượt Khó, Đạt Mức Tăng Trưởng Cao

Thời tiết năm 2013 diễn biến không thuận lợi, nắng nóng xuất hiện sớm, kéo dài xen kẽ các đợt gió mùa, nhiệt độ ban ngày và ban đêm chênh lệch lớn, giữa năm hai cơn bão số 5 và số 6 diễn ra liên tiếp, các yếu tố trên đã làm cho môi trường nuôi bị xáo động lớn, tôm, các con nuôi bị chết ở các vùng bãi bồi ven biển và vùng nội đồng các huyện như Nho Quan, Yên Mô.

16/01/2014
Bắt Được Cá Chình Bắt Được Cá Chình "Khủng"

Sáng 13-1, ông Nguyễn Văn Lắm cho biết vừa cào bắt được con cá chình nước ngọt cân nặng hơn 8,5 kg trên tuyến Kênh Xáng thuộc xã Tân An, thị xã Tân Châu, tỉnh An Giang.

16/01/2014
Nuôi Thủy Sản Thương Phẩm Nâng Cao Hiệu Quả Các Mô Hình Nuôi Thủy Sản Thương Phẩm Nâng Cao Hiệu Quả Các Mô Hình

Bình thuận có đa dạng loại hình nuôi thủy sản như: sản xuất tôm giống, nuôi tôm, cá nước lợ, nuôi tôm cá bằng lồng bè trên biển, nuôi cá hồ chứa (cá tầm), nuôi cá nước ngọt trong ao đất, nuôi cá nước ngọt bằng lồng bè... Thời gian qua, tỉnh đã tập trung triển khai các mô hình nuôi thủy sản với mục tiêu đa dạng hóa các đối tượng nuôi thủy sản.

16/01/2014
Khu Bảo Vệ Thủy Sản Làm Nơi Trú Ẩn Và Tạo Nguồn Thức Ăn Cho Tôm Cá Khu Bảo Vệ Thủy Sản Làm Nơi Trú Ẩn Và Tạo Nguồn Thức Ăn Cho Tôm Cá

Khu bảo vệ thủy sản (BVTS) Cồn Chìm (Vinh Phú) thành lập thí điểm cuối năm 2009, được bà con ngư dân hưởng ứng và đồng thuận cao. Đến nay, UBND tỉnh Thừa Thiên Huế thành lập 10 khu BVTS giúp tôm, cá có nơi trú ẩn và tạo nguồn thức ăn cho tôm, cá ở đầm phá.

16/01/2014
Làng Nuôi Cá Lăng Ở Xã Hòa Phú (Đắk Lắk) Làng Nuôi Cá Lăng Ở Xã Hòa Phú (Đắk Lắk)

Nằm bên dòng sông Sêrêpôk hoang dã, người dân thôn 5, xã Hòa Phú, TP. Buôn Ma Thuột (Đắk Lắk) nổi tiếng với nghề đánh bắt và nuôi trồng thủy sản, đặc biệt là thành công trong việc đưa cá lăng đuôi đỏ vào nuôi trong ao nước tĩnh đã góp phần làm hồi sinh dòng cá bản địa quý hiếm trước nguy cơ bị tuyệt chủng.

16/01/2014