Trang chủ / Tin tức / Mô hình kinh tế

Tiếp sức kinh tế trang trại

Tiếp sức kinh tế trang trại
Ngày đăng: 06/10/2015

Hiệu quả

Bình Định đã có 73 trang trại đạt tiêu chí quy định về KTTT của Bộ NN-PTNT, trong đó 69 trang trại chăn nuôi, 1 trang trại trồng trọt và 3 trang trại lâm nghiệp. Huyện Hoài Ân dẫn đầu ngành chăn nuôi với 28 trang trại, Tây Sơn 13, Phù Cát 10, Hoài Nhơn 4 và TX An Nhơn 4.

Theo Chi cục Phát triển nông thôn Bình Định, doanh thu bình quân của các trang trại trong năm 2014 ước đạt 2,6 tỷ đồng/trang trại, tăng 600 triệu đồng/trang trại so với năm 2013.

Trong đó, doanh thu bình quân của trang trại chăn nuôi đạt cao nhất với mức 4,3 tỷ đồng/trang trại, thấp nhất là trang trại trồng trọt với mức 720 triệu đồng/trang trại. Lợi nhuận bình quân của các trang trại từ 150 - 200 triệu đồng/năm.

 Ngoài ra, các trang trại còn tạo việc làm thường xuyên cho khoảng 10 lao động/trang trại.

Theo ông Tống Nhuệ, Chủ tịch Hội Làm vườn Bình Định, trong phát triển KTTT, vai trò của nhiều trang trại có quy mô lớn đã được thể hiện rõ nét. Không chỉ SX, các trang trại này còn đảm nhiệm dịch vụ cung ứng giống cây trồng, vật nuôi; tổ chức cung ứng dịch vụ thú y, BVTV và tiêu thụ sản phẩm cho nông dân.

Đặc biệt, loại hình trang trại chăn nuôi phát triển rất mạnh trong thời gian gần đây nhờ tình hình dịch bệnh trên đàn gia súc, gia cầm được khống chế tốt.

“Phát triển KTTT đã góp phần không nhỏ trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế của địa phương và giải quyết việc làm cho số lượng lớn lao động nông thôn”, ông Nhuệ nói.

Khó khăn

Hiệu quả là vậy, nhưng KTTT vẫn bộc lộ hạn chế về nhân lực và sự liên kết của các trang trại. Theo ông Hoàng Quốc Việt, Trưởng phòng Chính sách và Kinh tế nông thôn, Chi cục PTNT Bình Định, quy mô KTTT chưa phân bổ đồng đều ở các vùng, các địa phương.

Công tác tổ chức còn manh mún, nhiều trang trại do hình thành tự phát, nên tùy tiện trong bố trí SX; các chủ trang trại mạnh ai nấy làm, hoạt động phân tán, thiếu sự liên doanh, liên kết, tương trợ lẫn nhau.

"Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của các chủ trang trại còn thấp, chưa đủ để tổ chức SX quy mô lớn. Trong bối cảnh nông sản gặp khó khăn về đầu ra như hiện nay mà các chủ trang trại còn thiếu hiểu biết về thị trường, nên thường lúng túng và chịu thua thiệt trong tiêu thụ sản phẩm", ông Việt nói.

Tuy nhiên, bức xúc nhất hiện nay của KTTT là vấn đề vốn đầu tư phát triển SX. Theo ghi nhận, gần như toàn bộ các trang trại đều do chủ nhân tự bỏ vốn đầu tư, hoặc bỏ công xây dựng dần dần để hình thành. Các chủ trang trại rất khó tiếp cận nguồn vốn tín dụng. Nếu tiếp cận được thì cũng “nhát tay”, không dám vay, vì quá sợ mức lãi suất.

“Nếu KTTT được phát triển bền vững ngoài góp phần khai thác hiệu quả đất SXNN tại địa phương, còn khai khẩn được nhiều diện tích đất trống đồi núi trọc, đất hoang hóa tại các vùng trung du, miền núi và ven biển”, ông Tống Nhuệ nói.

Thêm vào đó, thời gian quy định trả nợ nắn, trong bối cảnh giá nông sản luôn bấp bênh, đầu ra không ổn định như hiện nay, các chủ trang trại sợ không kham nổi việc trả lãi, trả nợ vay.

Ví như trang trại của ông Nguyễn Văn Nam ở thôn Đông Bình, xã Nhơn Thọ (TX An Nhơn) có diện tích 7 ha, đang nuôi 27.000 con gà, doanh thu khoảng 1,2 tỷ đồng/năm; sau khi trừ chi phí còn lãi trên 600 triệu đồng/năm.

Ông Nam bộc bạch: “Khó khăn lớn nhất trong phát triển KTTT vẫn là nguồn vốn SX. Với đàn gà trứng giống 27.000 con, trang trại của tôi chi ít nhất 3 triệu đồng tiền cám mỗi ngày, chưa kể các chi phí khác. 

Tuy nhiên, thời gian qua, việc tiếp cận nguồn vốn vay từ các tổ chức tín dụng rất khó khăn do đòi hỏi nhiều thủ tục. Nếu các ngân hàng tạo điều kiện vay vốn thuận lợi, lãi suất ưu đãi, thì chủ trang trại sẽ có điều kiện để đầu tư mở rộng quy mô SX”.

Là người rất tâm huyết với ngành nông nghiệp, ông Tống Nhuệ, Chủ tịch Hội Làm vườn Bình Định cho rằng để KTTT phát triển bền vững, bên cạnh sự nỗ lực của các chủ trang trại, các ngành chức năng cần tăng cường tập huấn, bồi dưỡng kiến thức về quản lý SXKD, kỹ thuật thâm canh cây trồng, vật nuôi cho các chủ trang trại.

Quy hoạch SX cũng cần được cơ quan chức năng phân bố, xác định rõ vùng chuyên canh cây trồng, vật nuôi gắn với công nghiệp chế biến; xác định từng loại cây trồng trên từng loại đất, gắn với đầu tư hệ thống hạ tầng giao thông, thủy lợi, điện... phục vụ SX gắn với xây dựng nông thôn mới.

Tăng cường công tác thông tin thị trường một cách thường xuyên cho nông dân, hỗ trợ xây dựng thương hiệu sản phẩm đặc thù.


Có thể bạn quan tâm

“Vua Vịt Đồng” Một Tay “Vua Vịt Đồng” Một Tay

Cụt cánh tay trái do vấp phải bom bi trong một lần đào gốc tre, những tưởng cuộc sống của anh sẽ rơi vào khốn khó. Nhưng bằng ý chí và nghị lực của mình, anh đã dần vượt qua được khó khăn, mặc cảm để đưa gia đình vươn lên làm giàu bằng nghề chăn nuôi vịt đồng. Đó là anh Võ Văn Đề, 51 tuổi ở thôn Hội Yên, xã Hải Quế, huyện Hải Lăng (Quảng Trị)…

07/09/2013
Anh Tiến Quyết Tâm Làm Giàu Từ Nuôi Thỏ Anh Tiến Quyết Tâm Làm Giàu Từ Nuôi Thỏ

Đi tham quan mô hình gồm có 150 gian chuồng mới được dựng lên kiên cố trên diện tích nhà hình chữ U rộng khoảng 200m2, chúng tôi không khỏi ngỡ ngàng. Hệ thống điện, các ô cửa cho ánh sáng tự nhiên, khoang chứa nước… đều được bố trí khoa học, đầy đủ, rất thuận tiện cho việc chăm sóc vật nuôi.

07/09/2013
Thiếu Hụt Tôm Do Dịch EMS Còn Kéo Dài Trong Một Vài Năm Tới Thiếu Hụt Tôm Do Dịch EMS Còn Kéo Dài Trong Một Vài Năm Tới

Theo Matthew Briggs, cố vấn nuôi trồng thủy sản của công ty Ridley Aquafeed với hơn chục năm kinh nghiệm trong ngành tôm Đông Nam Á, thiếu hụt do Hội chứng EMS khắp châu Á nhiều khả năng sẽ kéo dài ít nhất trong vài năm tới, thậm chí “có thể lâu hơn”

09/09/2013
Công Tác Phòng Chống Dịch Bệnh Cho Tôm Tại Một Số Địa Phương Công Tác Phòng Chống Dịch Bệnh Cho Tôm Tại Một Số Địa Phương

Thời gian qua, dịch bệnh trên các loài thủy sản nuôi liên tiếp diễn ra khiến nhiều hộ nuôi lao đao. Không chỉ gây nên thiệt hại về kinh tế, dịch bệnh còn khiến tình trạng ô nhiễm môi trường trở nên nghiêm trọng, ảnh hưởng đến đời sống của người dân. Tôm là một trong những loài thủy sản được nuôi phổ biến do mang lại giá trị cao.

09/09/2013
Khảo Sát Tỷ Lệ Hao Hụt Của Lươn Nuôi Từ Nguồn Giống Khai Thác Tự Nhiên Khảo Sát Tỷ Lệ Hao Hụt Của Lươn Nuôi Từ Nguồn Giống Khai Thác Tự Nhiên

Theo kết quả khảo sát vào đầu năm 2013 của Trạm Khuyến nông thị xã Tân Châu về tỷ lệ hao hụt của lươn nuôi từ nguồn giống khai thác tự nhiên ở địa bàn xã Tân An thuộc thị xã Tân Châu cho thấy: Tỷ lệ hao hụt trung bình của lươn nuôi ở các mô hình nuôi lươn thương phẩm là: 59,27% .

09/09/2013
Sản phẩm khuyên dùng
Chất lượng vượt trội, bọt khí mịn, kháng khuẩn. Ống Nano-Tube là lựa chọn sục khí được ưa chuộng nhất trên thị trường để tăng cường oxy đáy trong ao nuôi tôm …
Sản phẩm khuyên dùng
Chất lượng hoàn toàn vượt trội, sử dụng hộp số giảm tốc vỏ gang, một trải nghiệm vô cùng mới. Oxy hoà tan cao, tạo dòng lưu thông mạnh giữ cho đáy ao luôn sạch.