Phát Triển Nuôi Cá Nước Lạnh

Nghề nuôi cá nước lạnh tuy mới du nhập vào nước ta nhưng nhanh chóng có sức lan tỏa nhất định. Ông Kim Văn Tiêu, Phó Giám đốc Trung tâm Khuyến nông - Khuyến ngư Quốc gia đã chia sẻ về nghề nuôi mới mẻ này.
Thưa ông, vì sao nghề nuôi cá nước lạnh có sức lan tỏa lớn đến vậy?
Đề án nuôi thử nghiệm cá nước lạnh được Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I khởi động năm 2005 tại Thác Bạc, Sapa, Lào Cai, sau đó chuyển vào nuôi thử nghiệm tại tỉnh Lâm Đồng vào năm 2007. Đến nay, phong trào nuôi cá nước lạnh đã phát triển mạnh trên 14 tỉnh, điển hình là Lào Cai, Lâm Đồng, Lai Châu, Yên Bái, Tuyên Quang, Sơn La… Nhiều cá nhân, tổ chức đã đầu tư hàng chục tỷ đồng để nuôi cá nước lạnh.
Sở dĩ phong trào nuôi cá nước lạnh phát triển mạnh như vậy là vì tính hiệu quả của nó, giá bán cá hồi thương phẩm vào mùa vụ tại các khu vực sản xuất là 300.000 đồng/kg, hiện nay đã tăng lên 450.000 đồng/kg mà cũng không có để bán, trong khi đó giá thành sản xuất chỉ khoảng 140.000 đồng/kg. Đối với nuôi cá tầm lấy trứng, hiệu quả còn cao hơn nhiều lần so với nuôi cá hồi… Điều đó đã lý giải tại sao phong trào nuôi cá nước lạnh lại phát triển nhanh như vậy.
Được biết, mục tiêu mà Bộ NN&PTNT đề ra đến năm 2015 tổng sản lượng cá nước lạnh đạt 1.500 tấn (tăng gần 2 lần so với hiện nay), theo ông, để đạt được mục tiêu này, cần phát huy và khắc phục ưu nhược điểm gì?
Dự án phát triển nuôi thủy đặc sản do Trung tâm Khuyến nông - Khuyến ngư Quốc gia chủ trì giai đoại 2011 - 2013 đã xây dựng mô hình nuôi cá hồi tại tỉnh Lào Cai, Lâm Đồng và nuôi cá tầm tại tỉnh Thái Nguyên, Đắk Lắk với tổng kinh phí trên 4 tỷ đồng đang phát huy hiệu quả tích cực trong việc thúc đẩy phong trào nuôi cá nước lạnh của cả nước, kinh phí này rất ít so với khoản đầu tư nuôi cá nước lạnh phải chi phí.
Tuy nhiên, bên cạnh hiệu quả đạt được đáng khích lệ đó còn có những bất cập cần khắc phục:
Một, phát triển chưa có quy hoạch: Đến nay phong trào phát triển nuôi cá nước lạnh vẫn tự phát, mạnh ai nấy làm, người làm sau trèo lên phía trên người làm trước gây ô nhiễm nguồn nước nên dịch bệnh là điều khó trách khỏi.
Hai, về giống: Hiện nay, nước ta chỉ sản xuất được cá hồi, còn cá tầm phải nhập khẩu trứng đã thụ tinh về ấp với giá rất cao, khoảng 10.000 đồng/quả, dự kiến đến năm 2015 chúng ta mới chủ động được giống hoàn toàn. Do việc nuôi cá nước lạnh hiệu quả cao nên nhiều doanh nghiệp nuôi thương phẩm cá nước lạnh lần lượt ra đời, mở rộng đến tất cả những nơi có thể nuôi được như khe suối, sông, hồ… trong khi chúng ta chưa sản xuất được giống cá tầm, giống cá hồi tuy sản xuất được nhưng giá thành còn cao. Đã xảy ra tình trạng làm ăn chụp giật kiểu “đánh nhanh rút gọn” miễn bán được giống, lãi càng nhiều càng tốt, người mua bị thiệt, đây là dấu hiệu bất ổn.
Ba, thức ăn: Chúng ta vẫn phải nhập khẩu thức ăn cho cá nước lạnh từ các nước Pháp, Phần Lan…; năm 2011 nhập khoảng 350 tấn. Nếu chúng ta không sản xuất được thức ăn trong nước thì khó giảm được giá thành cá thương phẩm, vậy cá nước lạnh vẫn là loại thực phẩm chỉ bán trong các nhà hàng đặc sản mà xa vời với người lao động.
Sản lượng cá nước lạnh cả nước hiện nay ước đạt 800 tấn, riêng tỉnh Lâm Đồng sản lượng tăng nhanh chóng mặt; năm 2007 sản lượng là 20 tấn, năm 2011 dự kiến là 400 tấn, sau 5 năm sản lượng tăng lên 20 lần, bình quân tăng 4 lần/năm. |
Bốn, về vốn: Để có 1 ha mặt nước nuôi cá nước lạnh, người dân phải chi phí 20 tỷ đồng, đây là số vốn đầu tư rất cao, nếu không có sự giúp đỡ của nhà nước thì nghề cá nước lạnh phát triển thiếu bền vững.
Năm, về thị trường: Chưa xây dựng được thương hiệu, chưa có quy trình nuôi chuẩn, hiện nay vẫn mạnh ai nấy làm, mạnh ai nấy bán, nuôi theo kinh nghiệm. Chưa thành lập được Hiệp hội nuôi cá nước lạnh Việt Nam nên thiếu định hướng, lợi ích người nuôi cá chưa được bảo vệ.
Sáu, đội ngũ cán bộ: Chưa đào tạo được nhiều chuyên gia về lĩnh vực này nên hiện nay thiếu đội ngũ cán bộ giỏi giúp các doanh nghiệp phát triển nuôi cá nước lạnh trên các địa hình.
Có thể bạn quan tâm

Nông dân Phạm Văn Hải, Ấp Tư, xã Mỹ Long Nam, huyện Cầu Ngang, tỉnh Trà Vinh phấn khởi nói: Vịt biển là giống vịt mới, rất thích nghi với vùng nuôi ven khu vực biển như ở Cầu Ngang. Đối với chăn nuôi vịt đòi hỏi phải đảm bảo nguồn nước trong quá trình phát triển của vịt, nếu như trước đây khi vào mùa khô thì nguồn nước ngọt trên các ao đìa không còn, vịt rất khó phát triển, do phần lớn là đất ngập mặn (ven biển).

Là một trong những ngành kinh tế quan trọng, nông nghiệp Việt Nam đang có những bước phát triển mạnh mẽ. Các doanh nghiệp đã đầu tư vào sản xuất chăn nuôi nay sẽ có thêm cơ hội thành công nhờ nguồn vốn cho vay xây dựng chuồng trại từ Ngân hàng Thương mại cổ phần Phát triển TP.Hồ Chí Minh (HDBank).

Người chăn nuôi heo lại lâm vào tình trạng “điêu đứng” do giá heo thịt giảm mạnh. Liên tục trong gần 2 tháng qua, giá heo thịt giảm từ 4,7 triệu đồng/tạ xuống còn 3,4 - 4 triệu đồng/tạ. Hiện nhiều hộ chăn nuôi heo “tiến thoái lưỡng nan”, bởi heo đến thời kỳ xuất chuồng gặp phải lúc giá quá thấp, bán thì lỗ mà giữ lại chờ giá lên thì tốn thêm nhiều chi phí.

Trước đây, các hộ gia đình nông dân ở huyện Vĩnh Linh (Quảng Trị) chăn nuôi bò theo quy mô nhỏ lẻ, mỗi hộ thường nuôi từ 1 đến 2 con. Những năm trở lại đây, việc chăn nuôi bò mang lại hiệu quả kinh tế cao và bền vững nên được các hộ gia đình đầu tư để phát triển đàn bò trên quy mô lớn, mỗi hộ nuôi từ 5 đến 10 con, nhiều hộ có đàn bò lên đến trên 20 con.

Xã Hoằng Phụ (Hoằng Hóa - Thanh Hóa) có tổng diện tích 200 ha nuôi trồng thủy sản, trong đó có 106 ha nuôi công nghiệp và 94 ha vùng ngoại đê. Đối với diện tích vùng ngoại đê, UBND xã Hoằng Phụ chỉ đạo chủ ao đầm nuôi đa con, đa canh và đa thời vụ, trong đó tôm sú, cua là đối tượng chính, đồng thời mở rộng diện tích nuôi bán thâm canh các loài thủy sản có giá trị kinh tế cao như tôm he chân trắng, vẹm, ngao...