Phất lên nhờ nuôi dế
"Dế là loại côn trùng ăn ít, sinh trưởng nhanh, sức đề kháng cao, nuôi ít rủi ro, mang lại thu nhập khá", anh Hoàng Ngọc Khiêm, thôn Tô Trang, xã An Mỹ, huyện Quỳnh Phụ (Thái Bình), người có 9 năm kinh nghiệm nuôi dế chia sẻ.
Là hộ tiên phong của xã An Mỹ mở mô hình nuôi dế từ năm 2005 và duy trì thành công đến nay, mọi đặc tính cũng như kinh nghiệm nuôi dế, anh Khiêm thuộc như lòng bàn tay.
Tuy nhiên, để mô hình đi vào ổn định như hiện nay, anh đã phải lặn lội vào Nam, ra Bắc để tìm hiểu kỹ thuật nuôi. Thời gian mới nuôi, con dế cũng khiến anh nhiều phen lao đao.
Anh Khiêm chia sẻ, nhờ nuôi dế mà gia đình anh thoát nghèo. Nhưng muốn thành công, quan trọng nhất là phải nắm vững kỹ thuật nuôi. Nuôi dế rất đơn giản, kĩ thuật chăm sóc không phức tạp. Nuôi không gây mùi hôi thối, ô nhiễm môi trường như những động vật khác.
Điều thuận lợi trong nuôi dế là yêu cầu diện tích nuôi không lớn, chuồng trại dễ làm. Thùng nuôi dế có thể bằng nhựa, tôn, có nắp đậy và kê cách nền. Nắp đậy khoét một lỗ ở giữa để thông khí và dễ chăm sóc dế hàng ngày.
Khu chuồng nuôi dế cần chú ý phòng tránh kiến, chuột, cóc… Quanh nơi nuôi dế phải có rãnh nước để bảo vệ. Thùng nuôi cần có nắp đậy để tránh chuột và vệ sinh sạch sẽ trước khi cho dế con vào nuôi. Dưới đáy thùng cần để một lớp rơm để dế leo trèo. Khi dế trưởng thành cần chia nhỏ ra các thùng để dế lớn nhanh.
“Thức ăn của dế rất đơn giản, chủ yếu là rau xanh, cỏ tươi, củ sắn, cà rốt, cải ngọt, trái cây, mầm cây… Lượng thức ăn cho dế phụ thuộc vào lứa tuổi. Dế sinh trưởng nhanh, lượng thức ăn ngày càng tăng tùy thuộc vào sức ăn của dế. Thức ăn thừa của dế phải bỏ, không để lại được bữa sau”, anh cho biết.
Dế ít uống nước, nhưng phải thường xuyên có đủ nước sạch và mát cho dế uống tự do. Hàng ngày nước được phun sương quanh thành thùng để dế uống.
Thời gian từ tháng 10 đến tháng 3 DL dế thường khó nuôi hơn, do chúng không chịu được rét nên thường chỉ nuôi vào mùa hè. Nuôi vào mùa đông phải dùng lò sưởi để dế không bị lạnh. Dế cũng thường mắc các bệnh về đường ruột nên khâu thức ăn, vệ sinh phải được đảm bảo. Còn lại dế sinh sản mạnh, phát triển tốt và ít rủi ro, thời gian nuôi ngắn.
“Mô hình nuôi dế của gia đình anh Khiêm là điểm sáng trong phát triển kinh tế xã An Mỹ, giúp thoát nghèo và mang lại thu nhập cao. Hiện nhiều bà con trong xã đang học hỏi kinh nghiệm của anh”, bà Phạm Thị Nội, Chủ tịch Hội Nông dân xã An Mỹ chia sẻ. |
Trong quá trình nuôi, dế trải qua 4 lần lột xác, mỗi lần lột xác dế rất mềm nên thường bị đồng loại cắn, ăn vì vậy cần tạo nhiều không gian sinh sống cho dế trú ẩn. Dế 20 ngày tuổi nuôi với mật độ 150 -200 con/thùng, sau đó chuyển qua nuôi dế thịt thương phẩm khoảng 60 ngày là cho xuất bán.
Dế 60 ngày tuổi là trưởng thành và bắt đầu sinh sản. Để dế đẻ nhiều và dế con khỏe mạnh, cần vệ sinh chuồng nuôi và thiết bị chăn nuôi sạch sẽ, khô ráo, máng thức ăn phải che đậy, tránh nước gây nấm mốc...
Loại côn trùng này rất dễ tiêu thụ, anh Khiêm thường đổ bán cho các nhà hàng, khách sạn, quán ăn với giá từ 200.000 - 250.000 đồng/kg, bán dế non cho người nuôi chim cảnh, cá cảnh, gà chọi là 150.000 đồng/kg.
Nuôi dế ít dịch bệnh, công chăm sóc và chi phí thức ăn thấp mà cho thu nhập khá cao so với nhiều nghề khác. Chỉ cần cho dế ăn sạch, ở sạch và uống sạch thì phần thắng từ nuôi dế sẽ nắm chắc. Vì vậy, thời kì cao điểm gia đình anh nuôi 500 thùng dế, cho thu lãi mỗi năm hàng trăm triệu đồng.
Hiện nay, gia đình anh vẫn duy trì số lượng dế nuôi khá lớn. Vừa bán dế thương phẩm, anh còn bán dế giống cho khắp các tỉnh thành như Hải Dương, Hưng Yên, Sơn La, Lai Châu… Những khách hàng đặt mua dế giống ở tỉnh xa, anh Khiêm gửi theo xe lên và chia sẻ kinh nghiệm, kĩ thuật nuôi rất tận tình, chu đáo.
Có thể bạn quan tâm
Theo dự báo của Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP), kim ngạch xuất khẩu thủy sản năm 2014 phấn đấu đạt 7 tỉ USD; trong đó riêng mặt hàng tôm là 3,5 tỉ USD, chiếm 50% về giá trị. Có thể nói, con tôm đang trở thành sản phẩm xuất khẩu chủ lực của ngành thủy sản, thế nhưng điều nghịch lý là hàng loạt hộ nuôi tôm ở ĐBSCL luôn phập phồng nỗi lo thua lỗ bởi dịch bệnh tràn lan và giá cả lên xuống thất thường...
Từ năm 2010 đến nay, Sóc Trăng không còn công nghiệp chế biến cá tra xuất khẩu, toàn bộ sản lượng cá thương phẩm đều bán cho các tỉnh lân cận. Theo thống kê của ngành thì người nuôi cá tra ở Sóc Trăng bị thua lỗ liên tục từ năm 2008 đến nay do chi phí đầu vào cao hơn từ 1.200 đến 2.500 đồng trên 1kg cá thương phẩm.
Chúng tôi tới thăm gia đình anh Trần Văn Dương khi anh đang cho cá ăn, dù đang bận tay với công việc nhưng gương mặt không giấu được niềm vui, anh nhẩm tính: “Với 4.000 m2 diện tích ao nuôi cá chép V1 làm chính, qua 4 tháng nuôi, tôi thấy cá lớn nhanh, trọng lượng trung bình đạt khoảng 400gam/con, với giá thị trường hiện nay là 35.000 đồng/kg, gia đình có thể thu lợi nhuận khoảng 27 triệu đồng”.
Những năm gần đây, tình trạng ô nhiễm môi trường tăng, tình hình biến đổi khí hậu và những khó khăn trong việc phát triển nuôi trồng thủy sản theo kiểu truyền thống đã ảnh hưởng không nhỏ đến ngành nuôi trồng thủy sản của Việt Nam. Nguyên nhân chủ yếu là chưa kiểm soát được 04 loại mối nguy gây mất an toàn thực phẩm, an toàn dịch bệnh, an toàn môi trường và an toàn lao động.
Chi cục trưởng Chi cục Thủy sản Đồng Nai Phùng Cẩm Hà cho biết: “Những nơi đặt đăng chắn là các bãi, eo, ngách đến mùa cá thường vào sinh sản, loại lưới dày sẽ tận diệt hết thủy sản trên hồ. Loại lưới này ngành thủy sản đã cấm từ lâu và không cho sử dụng tại các sông, hồ”. Theo Khu Bảo tồn thiên nhiên - văn hóa Đồng Nai, Hợp tác xã thương mại dịch vụ thủy sản Phước Lộc đã giải thể cách đây hơn 1 năm.