Nông sản ngộp thở với hội nhập
Điều này cho thấy mức độ thâm nhập sâu rộng của trái cây Thái Lan ngay ở nơi được coi là “vựa trái cây” Việt Nam.
Trái cây nội để dưới đất và "lép vế" với trái cây ngoại
Ngoại lấn át nội
"Phải gấp rút tái cơ cấu, chuyển sang canh tác trên những cánh đồng lớn, chuyển nông dân thành những công nhân nông nghiệp, được đào tạo, có kỹ năng và biết tuân thủ kỷ luật thị trường." TS Lê Đăng Doanh
Ông Bùi Hoàng Anh, chủ vựa trái cây Hoàng Anh ở đường Hai Bà Trưng (P.Tân An, Q.Ninh Kiều, TP.Cần Thơ), cho biết nếu đem so sánh bòn bon Thái với bòn bon nội thì hàng nội thua xa.
“Trái của mình nhỏ lại chua, hột bự nên người ta không mua. Còn bòn bon Thái trái to, vị ngọt nên rất đắt hàng dù giá trên 50.000 đồng/kg, cao hơn nhiều bòn bon mình”.
Cũng theo chủ vựa trái cây này, ngoài bòn bon, tại vựa của ông hiện đang bán chạy nhiều loại trái cây Thái Lan khác như me giá 70.000 đồng/kg, mây giá 58.000 đồng/kg, sầu riêng, xoài, chôm chôm...
Ngoài ra, một số trái cây Trung Quốc như lựu, hồng giòn, cam, quýt; nho, táo... cũng được mua nhiều.
Trong khi đó, các trái cây nội như cam xoàn giá khoảng 30.000 đồng/kg, thanh long chỉ 13.000 đồng/kg hay mãng cầu, bưởi... giá đều mềm hơn song sức mua lép vế so với trái ngoại.
Tương tự, bà Bé, chủ vựa trái cây Bé Hon, đường Nguyễn Thái Học (P.Tân An), cho biết trái cây Thái Lan cũng rất được ưa thích ở vựa của bà, nhất là vào tháng 4 - 5, măng cụt Thái Lan gần như chiếm lĩnh.
“Khách hàng đến mua đóng thành từng thùng chở đi làm quà”, bà Bé nói.
Theo bà, sở dĩ trái cây nội ít được ưa chuộng ngoài nguyên nhân chất lượng không bằng thì việc xử lý thuốc, hóa chất tẩm ướp trái cây của một số nhà vườn đã làm mất niềm tin ở người tiêu dùng.
GS-TS Võ Tòng Xuân, chuyên gia nông nghiệp kỳ cựu, thẳng thắn:
“Chúng ta không thể bắt người tiêu dùng phải sử dụng loại nông sản nội mà chất lượng không bằng, giá cả lại cao.
Thí dụ như đường cát của mình sản xuất ra tại nhà máy đã là 12.600 đồng/kg trong khi đường Thái Lan qua đến đây mới có 8.000 đồng/kg thì hỏi làm sao cạnh tranh được nếu không có giải pháp căn cơ hạ giá thành”.
Cũng theo vị giáo sư này, ngoài trái cây, mía đường thì bắp, đậu nành cũng sẽ khốn khó ngay trên sân nhà do hiệu quả kinh tế, năng suất, chất lượng kém xa so với các sản phẩm quốc tế.
Nước đến chân... chưa nhảy
TS Lê Đăng Doanh, chuyên gia kinh tế, phân tích:
“Nếu như các FTA (hiệp định thương mại tự do) mở ra cơ hội xuất khẩu sang các thị trường có cơ cấu kinh tế bổ sung cho nền kinh tế nước ta nhiều sản phẩm có lợi, thì AEC là cộng đồng kinh tế của những nước có cấu trúc kinh tế giống ta và cạnh tranh với ta trên nhiều mặt, nặng nề nhất là hàng nông sản”.
Sức ép sẽ khủng khiếp hơn khi bắt đầu từ ngày 1.1.2016, nông sản các nước ASEAN vào thị trường Việt Nam với thuế suất bằng 0%.
“Hiện siêu thị Metro đã được Thái Lan mua lại, còn siêu thị Parkson của Malaysia sẽ đưa ra thị trường Việt Nam những nông sản có chất lượng và năng lực cạnh tranh mạnh hơn, đó thực sự là mối lo ngại cực lớn cho nông sản Việt Nam”, TS Doanh nói.
Song một nghịch lý là sức nóng từ hội nhập dường như vẫn nằm ngoài sự quan tâm của nông dân. Ông Nguyễn Thanh Tâm, có 1 ha đất trồng măng cụt, sầu riêng ở ấp Hòa Thạnh (xã Xuân Hòa, H.Kế Sách, Sóc Trăng), cho biết ông không nghe và cũng không biết gì đến hội nhập và cạnh tranh. Công việc của ông vẫn là cố gắng sản xuất cho năng suất cao nhất có thể. Ông Tâm chỉ lo lắng khi đề cập đến giá cả trái cây của ông có thể bị lấn át bởi hàng ngoại vào vụ thu hoạch năm sau.
Ông Hồ Việt Hiệp, Phó chủ tịch UBND tỉnh An Giang, cũng thừa nhận:
“Chúng ta rất thụ động, không có chiến lược cụ thể, thậm chí ngay lãnh đạo tỉnh cũng nắm vấn đề hội nhập rất mờ nhạt bởi thiếu thông tin từ T.Ư thì làm sao nông dân họ nắm được”.
Ở góc độ doanh nghiệp, bà Lê Thị Tú Anh, Chủ tịch HĐQT Công ty CP nông nghiệp GAP (TP.HCM), càng tỏ ra lo ngại:
“Chúng tôi đang rất sốt ruột. Nếu doanh nghiệp nội không có sự liên kết thì các nhà đầu tư ngoại lớn sẽ rất dễ dàng đánh bại. Điều doanh nghiệp nội cần ngay bây giờ là cơ chế, hỗ trợ để tiếp thị, xúc tiến thương mại, xây dựng thương hiệu, thị trường... điều mà lâu nay họ phải tự bơi”.
Theo TS Lê Đăng Doanh: “Phải gấp rút tái cơ cấu, chuyển sang canh tác trên những cánh đồng lớn, chuyển nông dân thành những công nhân nông nghiệp, được đào tạo, có kỹ năng và biết tuân thủ kỷ luật thị trường”. TS Doanh lấy một ví dụ tại Vĩnh Phúc hiện nông nghiệp chỉ chiếm 9,8% GDP nhưng lao động trong nông nghiệp vẫn trên 34%.
Chính quyền tỉnh này vừa làm dự án thuê đất ruộng của nông dân trong vòng 10 năm rồi giao cho Tập đoàn Vincom để đơn vị này phối hợp các chuyên gia nông nghiệp của Israel phát triển nông nghiệp sạch, an toàn.
“Nông dân sẽ làm việc cho Vincom ngay trên mảnh ruộng của họ và được trả lương 3 triệu đồng/tháng. Đây là động lực rất lớn cho nông dân bởi thu nhập hằng tháng của họ chưa tới 900.000 đồng”, TS Doanh nói.
Có thể bạn quan tâm
Có 2 loại sâu đục thân hại cây cà phê là sâu đục thân mình trắng (Xylotrechus quadripes Chevrolat) và sâu đục thân mình hồng (Zeuze coffea Nietner). Chúng hoạt động quanh năm và phát triển mạnh ở những khu vực nhiệt độ cao và nhiều ánh sáng.
Hiện nay, nông dân trồng lúa trong vùng nước nhiễm mặn của các huyện phía Bắc của các tiểu bang, đặc biệt là tiểu bang Kattampally, có thể trồng giống lúa hữu cơ chịu mặn mới được lai tạo trong chương trình nhân giống cây trồng hữu cơ của Trạm Nghiên cứu Nông nghiệp Vùng (RARS) tại Pilikkode thuộc Kasaragod của Ấn Độ.
Sau một thời gian tăng giá cục bộ, những ngày qua giá các loại phân bón đã ổn định trở lại.
Trong 6 tháng đầu năm 2015, ngành điều là một trong số rất ít nông sản có khối lượng và giá trị xuất khẩu tiếp tục khởi sắc. Tuy nhiên, ngành hàng này vẫn còn một số tồn tại trong sản xuất và tiêu thụ cần thiết phải tập trung tháo gỡ.
Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, kim ngạch xuất khẩu nông-lâm-thủy sản tháng 6/2015 ước đạt 2,6 tỷ USD, đưa giá trị xuất khẩu của ngành sáu tháng đầu năm 2015 lên 14,42 tỷ USD, giảm 2,8% so với cùng kỳ năm 2014.