Nông Dân Trồng Đao Riềng Điêu Đứng Vì Giá Thấp

Dịp cuối năm, trong khi hàng loạt các loại hàng hóa tiêu dùng thi nhau tăng giá, các sản phẩm chăn nuôi, nông nghiệp khác cũng bị thương lái găm hàng đẩy giá lên thì lại xảy ra một nghịch lý với cây đao riềng.
Vụ năm nay ở Yên Bái, giá xuống thấp nhất trong vài năm trở lại đây. Nông dân thu hoạch đao riềng mà buồn. Hy vọng về một cái tết tươm tất với nhiều hộ nông dân đã không còn…
Nông dân đua nhau mở rộng diện tích
Những ngày cuối năm, người dân các xã ven sông Hồng từ Minh Quân, Minh Tiến, Quy Mông (Trấn Yên - Yên Bái) đến Xuân Ái, Hoàng Thắng (Văn Yên)… đang tấp nập thu hoạch đao riềng.
Trong một vài năm trở lại đây, cây đao riềng được giá, nông dân các xã ven sông Hồng đua nhau mở rộng diện tích từ vài chục héc-ta nay đã lên tới hàng trăm héc-ta. Riêng huyện Trấn Yên, diện tích đã lên tới 90ha, sản lượng hàng năm trên 60.000 tấn. Trong khi đó, thị trường tiêu thụ đang bế tắc, dẫn đến một điều tất yếu như đã xảy ra đối với nhiều loại cây khác: được mùa rớt giá.
Nếu như vụ trước, đao riềng được mùa lại được giá, hộ trồng ít cũng thu về hàng chục triệu đồng, hộ trồng nhiều kết hợp với thu mua và sơ chế bột đao thì có thu nhập tới cả trăm triệu đồng thì năm nay, giá xuống thấp, lợi nhuận chưa bằng một nửa.
Gia đình ông Thanh ở xã Quy Mông vụ này có 5 sào trồng cây đao riềng. 5 sào đao nhà ông năm nay thu được sản lượng hơn 12 tấn đao củ. Nếu như với giá bán từ 1.200 - 1.300 đồng/kg củ như vụ trước thì gia đình ông Quyết cũng thu về trên 15 triệu đồng. Nhưng năm nay, giá xuống chỉ còn 500 đồng một cân nên ông chỉ thu về được 6 triệu đồng.
Ông Thanh cho biết: “Tôi không nghĩ giá năm nay lại xuống thấp như vậy. Trừ chi phí thì vụ năm nay cũng chẳng lãi được bao nhiêu”.
Tương tự, hộ bà Lê Thị Dung ở xã Quy Mông có hơn 10 sào đất soi bãi màu mỡ ven sông Hồng trồng đao riềng. Ước tính vụ năm nay, gia đình bà thu gần 30 tấn củ. Vụ trước, bà thu được 32 triệu đồng. Vụ năm nay, bà chỉ bán được 15 triệu đồng. Mới chỉ chuyển sang trồng cây đao riềng được 3 vụ gần đây nhưng cuộc sống của gia đình bà Dung đã khá lên trông thấy vì so với trồng lúa và các loại cây rau màu khác, giá trị kinh tế của cây đao riềng cao hơn nhiều.
Tuy nhiên, giá cả bấp bênh khiến tâm lý của bà và những hộ dân khá lo lắng. Bà Dung cho biết: “Ba năm nay trồng đao riềng, tôi thấy hiệu quả kinh tế cao hơn so với các loại cây trồng khác và tôi vẫn có thể trồng xen thêm 1 vụ ngô. Tuy giá năm nay xuống thấp nhưng tôi dự định trong năm tới, gia đình tôi sẽ tiếp tục mở rộng thêm diện tích trồng đao để tăng thu nhập. Tôi hy vọng sang năm giá sẽ cao hơn!”.
Tìm hướng đi cho cây đao riềng
Không thể phủ nhận rằng, đã có thời gian, cây đao riềng đem lại hiệu quả kinh tế cao, góp phần xóa đói giảm nghèo cho nhiều địa phương. Tuy nhiên, sự phát triển nhanh, không có quy hoạch, không có sự quan tâm tìm kiếm mở rộng thị trường nên đã dẫn đến hậu quả như hiện nay, nông dân chết đứng vì giá thấp.
Tránh tình trạng bị ép giá sản phẩm từ các thương lái, đầu mối tiêu thụ trong và ngoài tỉnh, các ngành chức năng, các địa phương cần quan tâm quy hoạch vùng nguyên liệu phù hợp; cần tổ chức thành lập đoàn đi thăm quan, học tập kinh nghiệm về cơ chế đầu tư, hình thức kinh doanh bền vững ở các tỉnh, thành phố như: Hà Nội, Lạng Sơn, Quảng Ninh, Bắc Cạn...
Song song là mở rộng thị trường tiêu thụ tại Hà Nội, Hải Phòng, thành phố Hồ Chí Minh; xúc tiến, tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm tại các siêu thị, đại lý bán hàng, doanh nghiệp, tư nhân... nhằm đảm bảo nguồn tiêu thụ hợp lý. Cần thiết phải có một tổ chức liên kết các hộ nông dân trồng cây đao riềng, có thể là thành lập các hợp tác xã sản xuất, chế biến đao riềng với mục đích liên kết các cơ sở chế biến tinh bột dong, sản xuất miến, tạo thành một khối thống nhất đoàn kết, tương trợ, hợp tác cùng có lợi, tạo điều kiện để tiêu thụ toàn bộ sản phẩm củ dong riềng ở địa phương do người dân làm ra, bình ổn giá thu mua đầu ra, đầu vào.
Có thể bạn quan tâm

Giữa trưa, trong cái nắng chói chang của mùa hè, trên đồng muối thôn Diêm Vân, xã Phước Thuận (huyện Tuy Phước) nhưng hàng chục diêm dân mải miết lao động. Người cào, người gánh, người vận chuyển muối lên xe đưa đi tiêu thụ, tất cả đều rất hối hả.

Không đầu tư thêm nhà máy chế biến cá tra phi lê ở ĐBSCL - Đó là ý kiến của ông Nguyễn Thanh Tùng, Viện trưởng Viện Kinh tế và Quy hoạch thủy sản (Bộ Nông nghiệp và PTNT) tại buổi lấy ý kiến dự thảo “Quy hoạch phát triển sản xuất và tiêu thụ cá tra vùng ĐBSCL đến năm 2020” tổ chức tại Cần Thơ vào ngày 10/7.

Hiện tại, trên địa bàn tỉnh Đăk Lăk có 5 loại hình cà phê bền vững gồm: 4C, UTZ Certified, RFA và Fairtrade. Tuy nhiên với cà phê canh tác theo tiêu chuẩn 4C (canh tác dựa trên những tiêu chuẩn về kinh tế, môi trường, xã hội) được xem là loại hình phổ biến nhất do yêu cầu kỹ thuật ở mức cơ bản dễ tiếp cận đối với người dân.

Năm 2014, Vĩnh Châu có 6.205 ha trồng hành tím, sản lượng đạt 110.126 tấn. Mặc dù cán bộ nông nghiệp địa phương hướng dẫn nông dân nâng cao kỹ thuật canh tác và chất lượng sản phẩm hành tím, nhất là bón phân cân đối, khuyến cáo sử dụng phân hữu cơ để nâng cao chất lượng và thời gian bảo quản, nhưng vẫn còn một số nông dân canh tác theo tập quán cũ muốn tăng trọng lượng, bón thừa phân urê.

Ông Trần Thanh Phương, ở ấp Tường Thắng B, xã Vĩnh Thanh là một trong số những người đầu tiên nuôi cá bống tượng ở huyện Phước Long. Với diện tích 1,1 ha đất nông nghiệp, trước đây chỉ độc canh cây lúa, ông nhận thấy nếu chỉ độc canh cây lúa thì kinh tế gia đình khó được cải thiện.