Nông dân Quảng Trị xung kích xây dựng nông thôn mới

Đó là kết quả của sự đồng sức, đồng lòng thực hiện các cam kết đã được Hội ND tỉnh triển khai suốt 5 năm nay.
Vai trò xung kích
Ông Nguyễn Ngọc Lương – Phó Chủ tịch Hội ND tỉnh Quảng Trị cho biết, là cơ quan gần gũi với hơn 80% dân số là ND nên ngay từ ban đầu Hội xác định vai trò xung kích trong phong trào xây dựng nông thôn mới (NTM).
“Hội đã chọn 4 tiêu chí là: Vệ sinh môi trường, dạy nghề cho lao động nông thôn, giảm tỷ lệ hộ nghèo, xây dựng gia đình văn hóa làng bản văn hóa gắn với phong trào xây dựng nông thôn mới để tập trung thực hiện.
Bằng hình thức tuyên truyền đa dạng, phong phú như tập huấn thông qua hoạt động hội, sinh hoạt các câu lạc bộ qua các buổi tuyên truyền miệng, sử dụng hệ thống truyền thanh cơ sở, bản tin, trang thông tin điện tử của Hội, hội thi sân khấu hóa… thu hút trên 82% hội viên ND tham gia, hưởng ứng...” - ông Lương chia sẻ.
Bên cạnh đó, Hội đã tổ chức đào tạo nghề, tổ chức các hoạt động khuyến nông - khuyến ngư, chuyển giao khoa học kỹ thuật, công nghệ mới cho ND sản xuất, tăng năng suất.
Xây dựng các mô hình trình diễn để ND học tập, làm theo.
Loại hình dạy nghề được chú trọng là “Lấy ND dạy ND”, dạy nghề tại chỗ... gắn với giải quyết việc làm bằng cách liên kết với các doanh nghiệp ký kết hợp đồng đào tạo để khi học viên ra trường có việc làm...
ND Quảng Trị tích cực tham gia làm đường giao thông nông thôn.
Trong 5 năm qua, hội viên ND đã tự nguyện hiến 23.714 m2 đất, đóng góp 832.443 ngày công, làm mới và sửa chữa 3.714 km đường giao thông, xây dựng 65 cổng chào, nạo vét 547 km kênh mương…
Phong trào ND sản xuất, kinh doanh giỏi (KDSXG) các cấp đã tạo việc làm cho hàng ngàn người lao động ở nông thôn.
Chỉ tính riêng năm 2014, toàn tỉnh có gần 24.000 hộ đạt hộ KDSXG cac cấp, 75.377 gia đình ND đạt gia đình văn hóa.
Ngoài ra, Hội ND còn đóng góp nhiều cách làm hay, giải quyết được những vấn đề khó như dồn điền đổi thửa, di dời mồ mả…
Tích cực hỗ trợ ND
Để ND phát triển sản xuất, giải quyết bài toán thu nhập, hộ nghèo, Hội ND tỉnh Quảng Trị đã tìm nhiều cách hỗ trợ ND.
Ngoài đào tạo và giải quyết việc làm sau đào tạo nghề, Hội còn vận dụng linh hoạt nguồn vốn Quỹ Hỗ trợ ND (HTND) để giúp ND có vốn đầu tư sản xuất.
Tính đến nay, tổng nguồn vốn Quỹ HTND tỉnh Quảng Trị là trên 11 tỷ đồng, cho vay theo hình thức xoay vòng, mô hình tổ nhóm với lãi suất thấp, thủ tục nhanh chóng để phục vụ phát triển sản xuất, kinh doanh có sự liên kết của các tổ hợp tác trong cùng khu dân cư.
Ngoài ra, Hội còn cho vay nguồn ủy thác qua Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn với tổng dư nợ đến nay lên đến 299,5 tỷ đồng.
Từ nguồn vốn vay, nhiều mô hình làm ăn hiệu quả như chăn nuôi lợn-cá, nuôi cá chình lồng, chăn nuôi bò lai, phát triển cao su, hấp sấy cá…giải quyết từ 10-15 lao động trên mỗi mô hình.
Theo ông Lương, trong thời gian tới Hội sẽ tiếp tục thực hiện phong trào “Quảng Trị chung sức xây dựng NTM” gắn với 3 phong trào thi đua lớn của Hội là phong trào “ND thu đua sản xuất, kinh doanh giỏi”, “đoàn kết giúp nhau làm giàu” và phong trào “ giảm nghèo bền vững”.
Có thể bạn quan tâm

Thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới, chuyển đổi từ mô hình nuôi con năng suất thấp sang mô hình cho hiệu quả kinh tế cao hơn, xã Liên Châu, huyện Thanh Oai, TP.Hà Nội đã triển khai thành công mô hình thí điểm nuôi cá chép lai cho năng suất cao.

Ngay đầu vụ nuôi năm 2014, tình hình dịch bệnh trên các hồ tôm ở Phú Yên nói chung và huyện Đông Hòa nói riêng diễn biến phức tạp, ảnh hưởng đến kinh tế của các hộ nuôi. Riêng ông Lê Thanh Hải ở thôn Thọ Lâm, xã Hòa Hiệp Nam (Đông Hòa), nhờ áp dụng công nghệ sinh học Semi Biofloc vào nuôi tôm nên mang lại kết quả cao, thu lãi hàng trăm triệu đồng.

Nuôi ong lấy mật là nghề không còn xa lạ đối với người dân trên địa bàn tỉnh Yên Bái, nhiều hộ dân trong tỉnh chủ yếu nuôi với hình thức nhỏ lẻ, sản phẩm để phục vụ nhu cầu gia đình là chính. Tuy nhiên, vài năm trở lại đây, một số hộ dân đã biết tận dụng diện tích vườn đồi, rừng và trang trại để phát triển nghề nuôi ong và đem lại nguồn thu nhập cao.

Đại Từ được coi là “vựa chè” của tỉnh Thái Nguyên với tổng diện tích chè cho thu hoạch hơn 6.000 ha, chiếm 1/3 diện tích của tỉnh Thái Nguyên, và là huyện có diện tích chè đứng thứ hai so với cả nước, chỉ sau huyện Bảo Lộc của tỉnh Lâm Đồng.

Trái dừa xiêm sau khi hái xuống được gọt sạch và xử lý bằng tia laser với nắp khui cắm vào vỏ quả dừa, khi uống chỉ việc bật nắp như bật lon nước ngọt.