Nhiều Rào Cản Phát Triển Ngành Giống
Mấy năm trở lại đây ngành giống cây trồng (GCT) Việt Nam đã có bước phát triển tốt với quy mô tăng mạnh và đạt khoảng 340 triệu USD trong năm 2013. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, ngành này vẫn bộc lộ nhiều yếu kém. Phóng viên Báo Công Thương đã trao đổi với TS Lê Hưng Quốc - Phó Chủ tịch Hiệp hội Thương mại Giống cây trồng Việt Nam xung quanh vấn đề này.
- Xin ông cho biết thực trạng hiện nay của ngành giống?
Ngành GCT Việt Nam hiện mới xếp ở mức trung bình so với khu vực, sức cạnh tranh thấp, mới chỉ tập trung cây lúa và ngô. Về quy mô doanh nghiệp (DN), cả nước hiện có trên 300 đơn vị sản xuất, kinh doanh GCT và hàng ngàn tổ, đội, HTX sản xuất giống nông hộ.
Trong số trên chỉ có vài ba đơn vị có tiềm lực mạnh, đầu tư bài bản, số còn lại đều là DN vừa và nhỏ, sản xuất manh mún. Điều đáng nói không phải đơn vị sản xuất giống cây trồng nào cũng làm tốt chức năng của mình vì trên thực tế rất ít DN chịu kết hợp với các viện để đầu tư vào nghiên cứu các giống mới do chi phí cao, cho nên thay vì đầu tư lâu dài, phần lớn chỉ tập trung nhập khẩu hạt giống về bán để hưởng chênh lệch giá.
TS Lê Hưng Quốc - Phó Chủ tịch Hiệp hội Thương mại Giống cây trồng Việt Nam
Theo ông, đâu là rào cản lớn nhất của ngành giống?
Ngành GCT Viêt Nam hiện tồn tại ba rào cản lớn. Rào cản thứ nhất là đội ngũ nhân lực. Trong suốt nhiều năm qua, việc chọn tạo nguồn giống mới chủ yếu được các viện trường và trung tâm nghiên cứu thực hiện. Nhưng bản thân các đơn vị này luôn khó khăn về tài chính.
Thêm vào đó trình độ nghiên cứu ở các đơn vị này cũng mới chủ yếu dừng lại ở khoa học mô tả chứ chưa làm được khoa học phân tử. Vì thế mới chỉ làm chủ được một số loại giống lúa, ngô, cao su, cà phê, tiêu…, còn lĩnh vực rau củ quả và hoa, thì chưa thể sản xuất được.
Rào cản thứ hai là vấn đề xây dựng thương hiệu. Tại một số đơn vị nghiên cứu sản xuất giống trong nước hiện nay với sự kết hợp giữa viện, trường và DN đã có thể nuôi cấy mô, nhân giống thành công các loại hoa nguồn gốc châu Âu với giá rẻ hơn nhiều lần so với nhập khẩu. Tuy nhiên, chúng ta vẫn chưa nghiên cứu được những loại giống có chất lượng cao và chỉ tập trung vào hai loại chính là lúa, ngô, các loại khác như hoa quả vẫn phải nhập từ Thái Lan, Mỹ…
Và rào cản cuối cùng là tiềm lực của DN. Như đã nói ở trên, hầu hết các đơn vị sản xuất giống vẫn là quy mô vừa và nhỏ do đó họ yếu về tài chính cũng như ít có sự đầu tư cho các nghiên cứu giống mới cho thị trường.
Thời gian qua, một số DN lớn của ngành giống đã bị “thâu tóm” bởi các DN ngoài ngành, ông nhận định thế nào về việc này?
Theo tôi đó là một hướng đi tất yếu khi ngành giống đang ngày một lợi nhuận cao nên những DN có tiềm lực tài chính sẽ bị thu hút và họ đầu tư vào. Chẳng hạn Công ty CP Xuyên Thái Bình (PAN) đang sở hữu 55% vốn tại Công ty CP Giống Cây trồng Trung ương (NSC) hay Công ty CP đầu tư FIT đang sở hữu 80% vốn điều lệ tại Công ty CP Vật tư kỹ thuật Nông nghiệp Cần Thơ (TSC)…
Việc các DN này đầu tư vào ngành giống cũng có thể xem là một hướng đi mới. Bởi nếu họ có thể bắt tay được với các tập đoàn giống nước ngoài để cùng làm ăn và học hỏi dần công nghệ thì cũng đã là một cơ hội tốt. Song ngoài lợi ra thì cũng có những bất cập như: DN ngoài ngành không am hiểu sâu về ngành giống nên ít có đầu tư chuyên sâu cho giống mới, họ đầu tư vì chỉ quan tâm đến lợi nhuận…
Để phát triển bền vững, ngành giống cần làm những gì thưa ông?
Muốn phát triển bền vững, có tính cạnh tranh ngành giống cần phải xây dựng thương hiệu riêng, xây dựng được nhiều mô hình cánh đồng mẫu và đầu tư cho nhân lực. Trong đó, việc xây dựng cánh đồng mẫu cần có sự liên kết chặt chẽ giữa các hợp tác xã với DN, nông gia và Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ cho cả ba thành phần liên kết trên.
Xin cảm ơn ông!
Nguồn bài viết: http://baocongthuong.com.vn/thi-truong-trong-nuoc/73430/nhieu-rao-can-phat-trien-nganh-giong.htm#.VIaNyo0cTDc
Có thể bạn quan tâm
Giai đoạn từ những năm 1990 về trước trên đồi Phú Thọ bát ngát đâu đâu cũng là sắn, sắn là nguồn lương thực chủ yếu không chỉ cho người mà còn chăn nuôi, có năm diện tích lên tới đến 55-60 ngàn ha, sản lượng lên tới hàng chục vạn tấn củ tươi.
Trước tình hình đó, để đảm bảo vụ xuân đạt kết quả cao, huyện Thanh Sơn đã khẩn trương kiện toàn Ban chỉ đạo sản xuất, phân công cán bộ bám sát, chỉ đạo đến từng xã để kịp thời phát hiện những khó khăn, vướng mắc đề xuất những giải pháp giải quyết, huyện cũng yêu cầu các xã, thị trấn, phòng chuyên môn hướng dẫn bà con nông dân khẩn trương làm dầm với diện tích đất trũng và cày ải đối với diện tích không trồng cây vụ đông.
Trước diễn biến phức tạp của thời tiết vụ Chiêm xuân năm 2014 - 2015, đặc biệt theo dự báo là vụ đông xuân ấm, nếu không chỉ đạo quyết liệt về thời vụ để xảy ra tình trạng gieo cấy các giống lúa ngắn ngày trà xuân muộn trước khung lịch thời vụ dẫn đến lúa trỗ sớm, gặp rét muộn sẽ ảnh hưởng lớn đến năng suất.
Trong ngôi nhà mới xây, anh Thắng không giấu nổi niềm vui xen lẫn niềm tự hào bộc bạch: “Thực tế cuộc sống quá khó khăn nên vợ chồng mình bàn nhau nhận thầu toàn bộ đập Đồng Màu gần 30ha để nuôi thả cá kiếm thêm thu nhập. Ban đầu đồng nước hoang vu toàn lau sậy, nhiều người cũng nói vào nói ra nhưng được chính quyền địa phương, khu dân cư ủng hộ mình quyết tâm làm đến cùng”.
Anh Lê Thanh Học người dân tộc Mường ở xóm Múc, xã Tam Thanh, huyện Tân Sơn bắt đầu nuôi giun quế từ tháng 2-2014. Sau khi anh cùng các hội viên Câu lạc bộ sinh kế cộng đồng xã Tam Thanh đến thăm trang trại nuôi giun quế ở Đông Anh - Hà Nội thì anh mới biết tới nghề nuôi giun này.