Người trồng sầu riêng đầu tiên ở Đồng Xoài

Ông kể, trước kia ông vốn làm nghề lái máy cày. Những lần đi cày đất thuê, ông thấy nhà nào trồng sầu riêng đều khá giả hoặc giàu hơn những hộ trồng loại cây khác.
Ông thầm học lỏm kỹ thuật rồi tới năm 1997 mua 3ha để trồng sầu riêng. Năm 2001, ở vụ thu hoạch đầu tiên, vườn sầu riêng của ông đạt năng suất khá cao, mỗi trái đạt từ 7-8kg.
Từ tiền lời của vụ đó, vợ chồng ông mua thêm 8ha đất điều liền kề và chuyển hết sang trồng sầu riêng.
Ông Tâm (trái) đang trao đổi với cán bộ Hội ND tỉnh Bình Phước tại mô hình quýt đường của nhà mình.
Năm 2007, vườn sầu riêng bị sâu bệnh, năng suất giảm mạnh, ông Tâm nhanh nhạy chuyển sang trồng cao su, bưởi da xanh, quýt đường và chôm chôm.
“Hiện gia đình tôi đang quản lý 13ha quýt, 5ha bưởi; 4ha chôm chôm và 15ha cao su, tạo việc làm thường xuyên cho 15-20 lao động với mức lương bình quân 4,5 triệu đồng/người/tháng.
Ước tính sau khi trừ hết chi phí, lợi nhuận đạt khoảng 700 triệu đồng/năm” - ông Tâm thổ lộ.
Cũng theo ông Tâm, do thiếu vốn nên đến nay ông chưa thể áp dụng công nghệ cao hoàn toàn vào trang trại cây ăn quả mà chỉ dùng kỹ thuật tưới nhỏ giọt.
“Nếu vụ quýt tới đây cho thu hoạch, chỉ cần giá 15 triệu đồng/tấn, gia đình tôi cũng lời gần 3 tỷ đồng, lúc đó phải áp dụng công nghệ cao vào sản xuất để trái cây của mình có sức cạnh tranh.
Để trụ được với nghề trồng trái cây, người nông dân cần tự giác áp dụng quy trình, kỹ thuật tiên tiến để cho ra trái cây sạch, nếu không thì sẽ thua ngay” - ông Tâm trăn trở.
Bên cạnh việc sản xuất giỏi, ông Tâm còn tham gia nhiệt tình công tác từ thiện xã hội ở địa phương như cho 5 hộ nghèo vay vốn không trả lãi; hỗ trợ xây nhà Đại đoàn kết.
Ông Tâm và gia đình vừa góp gần 100 triệu đồng và vận động thêm bà con xung quanh để nâng cấp, mở rộng con đường trong ấp, giúp cho việc đi lại của người dân thuận tiện hơn.
Có thể bạn quan tâm

Trước tình hình dịch bệnh diễn biến phức tạp trên tôm nuôi, việc phòng, chống dịch bệnh cũng như bảo vệ môi trường vùng nuôi là vấn đề bức xúc nhất hiện nay. Trong đó, thực hiện "ba không" (không giấu bệnh, không xả thải nước ao khi chưa được xử lý và không xả thải xác tôm chết do nhiễm bệnh ra môi trường) là giải pháp tốt nhất mà người nuôi tôm cần tuân thủ.

Trong suốt 15 năm, ông Armando A.León mơ ước có một phương pháp nuôi tôm mới, thật sự thân thiện với môi trường, chi phí sản xuất thấp hơn và năng suất cao hơn so với phương pháp nuôi tôm bán thâm canh truyền thống.

Ao nuôi cá lóc bông có diện tích từ 500 m2 trở lên, độ sâu từ 1,5 - 2 m, bờ ao phải cao và chắc chắn. Cống thoát nước có khẩu độ lớn để thoát nước dễ dàng. Trước khi thả nuôi cá, ao được tát cạn, vét bùn đáy, tu sửa chổ sạt lở, lấp hết lỗ mọi quanh ao. Rải vôi đáy ao từ 10 – 15 kg/100 m2 ao, phơi đáy 2 – 3 ngày rồi cấp nước vào ao.

Tôm rằn (Penaeus semisulcatus) là loài tôm có kích thước lớn, thích ứng với nhiệt độ cao, độ mặn cao, ăn tạp, có giá trị kinh tế như tôm sú cùng cỡ và là một trong số 110 loài thuộc họ tôm he (Penaeidae) (theo FAO).

Chất lượng cá giống là một yếu tố quyết định trong chăn nuôi thủy sản song lại chưa nhận được sự quan tâm và quản lý đúng mức.