Trang chủ / Tin tức / Mô hình kinh tế

Nam Định phát triển hạ tầng nuôi trồng thủy sản

Nam Định phát triển hạ tầng nuôi trồng thủy sản
Ngày đăng: 08/05/2015

Tuy nhiên, bên cạnh những lợi thế về tự nhiên, hệ thống cơ sở hạ tầng vùng NTTS của các huyện đều thiếu đồng bộ, nhất là hệ thống thủy lợi chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển sản xuất.

Mặc dù tỉnh đã nỗ lực trong việc đầu tư nâng cấp, phát triển hạ tầng phục vụ NTTS, song vẫn còn nhiều bất cập. Vốn đầu tư cho phát triển NTTS còn quá nhỏ so với yêu cầu. Một số dự án NTTS đã triển khai, nhưng thiếu vốn, nhất là việc huy động vốn tín dụng và vốn tự có của nông dân thấp nên tiến độ thực hiện các dự án chậm. Nông dân thiếu vốn đầu tư cải tạo ao, đầm, xây dựng các công trình nuôi, giống, vật tư trong khi đó đầu tư cho NTTS lớn hơn rất nhiều so với sản xuất nông nghiệp.

Cơ sở hạ tầng của các cơ sở sản xuất giống nước ngọt đã được đầu tư từ nhiều năm trước, nay đã xuống cấp, chất lượng đàn cá bố mẹ bị thoái hóa do đó chất lượng con giống sản xuất ra chưa đảm bảo. Đặc biệt, hệ thống thuỷ lợi đầu tư trước đây chủ yếu phục vụ cho sản xuất nông nghiệp, khi chuyển sang NTTS không còn phù hợp; quy hoạch hệ thống thuỷ lợi chưa hợp lý, nhiều công trình không phát huy được hiệu quả; kinh phí đầu tư hạn chế.

Hiện nhiều vùng NTTS còn rất khó khăn, cơ sở hạ tầng kỹ thuật phục vụ NTTS, đặc biệt là hệ thống kênh mương, ao đầm và các công trình phụ trợ của các dự án NTTS tập trung đã xuống cấp nên hiệu quả phục vụ sản xuất chưa cao. Cuối năm 2014, Sở NN và PTNT đã thành lập đoàn công tác điều tra, đánh giá thực trạng hệ thống công trình thủy lợi vùng NTTS nước mặn lợ tập trung theo quy hoạch tại các huyện Giao Thủy, Nghĩa Hưng, Xuân Trường và Hải Hậu.

Tại một số tiểu vùng NTTS là Thị trấn Quất Lâm, Giao Phong (Giao Thủy); Nam Điền, nông trường Rạng Đông (Nghĩa Hưng) đã có hệ thống tưới, tiêu tương đối riêng biệt. Tuy nhiên, tại một số tiểu vùng khác hệ thống công trình còn nhiều bất cập. Nhiều cống không đảm bảo yêu cầu phục vụ tưới, tiêu. Tại huyện Nghĩa Hưng, một số hệ thống công trình cấp nước chính (các tuyến kênh cấp I, II, các cống đầu mối, các cống đập điều tiết nội đồng) vẫn chưa hoàn chỉnh, kênh bị bồi lắng do lâu ngày không được nạo vét, khẩu độ các cống hẹp do được xây dựng từ lâu, không phù hợp với quy hoạch mới.

Tại một số tiểu vùng ở huyện Giao Thủy, các hộ nuôi không có ao lắng nên khi tiêu nước mang theo chất thải, gây bồi lắng kênh, khi lấy nước tưới vào ao nuôi thì chất lượng nước không đảm bảo; chưa có hệ thống tiếp nước ngọt riêng để kết hợp với nước mặn cho đảm bảo với chất lượng nước cho đối tượng nuôi; nếu sử dụng nguồn nước ngọt từ hệ thống kênh tưới cho lúa để đưa vào ao nuôi là không đảm bảo do nước ô nhiễm từ thuốc BVTV, nước thải sinh hoạt, nuôi vịt trên kênh…

Tại các vùng chuyển đổi sang NTTS của các xã Xuân Hòa, Xuân Vinh (Xuân Trường) và Hải Đông, Hải Chính (Hải Hậu) hầu như sử dụng hệ thống thủy lợi hiện có phục vụ mục đích sản xuất nông nghiệp là chính; kênh cấp và tiêu được sử dụng cùng chung một hệ thống. Hiện tại các hệ thống kênh mương này đang bị sạt lở mái, bồi lắng lòng kênh làm giảm hiệu quả cấp và tiêu nước.

Đáng chú ý là ở những vùng úng trũng ở các huyện Xuân Trường, Hải Hậu khi chuyển sang NTTS việc đầu tư cơ sở hạ tầng, nhất là thủy lợi chưa được chú trọng. Riêng ở huyện Xuân Trường, hệ thống kênh, mương chính, kênh nội đồng đều chưa đủ về chất lượng, số lượng để đáp ứng cho NTTS. Hệ thống xử lý nước cấp và nước thải hầu như các hộ nuôi chưa thực hiện đúng quy trình kỹ thuật. Khi lấy nước vào ao, nguy cơ ô nhiễm thuốc trừ sâu, thuốc trừ cỏ từ các diện tích đất canh tác nông nghiệp xung quanh khá cao.

Vùng NTTS huyện Hải Hậu nằm rải rác, không tập trung, nhỏ lẻ và manh mún; ở các vùng chuyển đổi sang NTTS còn sử dụng hệ thống thủy lợi phục vụ cho sản xuất muối. Từ thực tế trên, để NTTS của tỉnh phát triển bền vững, hạn chế tình trạng tự phát, manh mún, các cấp, các ngành và các địa phương cần tiếp tục phối hợp, quản lý, thực hiện tốt việc phát triển NTTS theo quy hoạch đã được phê duyệt. Nghiên cứu, rà soát, bổ sung quy hoạch cho phù hợp với điều kiện thực tiễn của từng địa phương, từng nhóm đối tượng nuôi, đảm bảo hiệu quả và thực hiện từng bước vững chắc.

Về lâu dài cần phải tách hệ thống vận hành tưới, vận hành tiêu riêng biệt. Để giải quyết những khó khăn của các vùng kể cả trước mắt và lâu dài, cần có dự án đầu tư cải tạo, nâng cấp hệ thống thủy lợi cho các khu vực phục vụ NTTS nước mặn lợ tập trung. Các cống đầu mối do xây dựng đã lâu, năng lực hạn chế nên cần được đầu tư xây dựng lại. Các kênh cấp I, cấp II cần nạo vét lại toàn bộ hệ thống tại những vùng sản xuất trồng trọt bị ảnh hưởng do mặn nên chuyển sang NTTS. Trong nội đồng cần sửa chữa, nâng cấp các cống cấp II đã hư hỏng; các địa phương và các Cty KTCTTL có trách nhiệm làm các cống cấp III.

Qua điều tra, đánh giá, Sở NN và PTNT đã xây dựng kế hoạch đầu tư, cải tạo và nâng cấp hệ thống công trình thủy lợi vùng NTTS tập trung của các huyện Giao Thủy, Nghĩa Hưng, Xuân Trường và Hải Hậu. Hiện tại, Dự án nâng cấp, cải tạo 2 trung tâm giống thủy sản nhằm đáp ứng nhu cầu nuôi thủy sản nước ngọt và nước mặn lợ của các hộ nuôi trong tỉnh đã được phê duyệt; trong đó Dự án nâng cấp, cải tạo Trung tâm Giống hải sản ở Bạch Long với mức đầu tư 70 tỷ đồng hiện đang chuẩn bị mặt bằng, tập kết vật tư, thiết bị, dự kiến trung tuần tháng 5-2015 sẽ khởi công. Dự án nâng cấp hệ thống công trình thủy lợi phục vụ NTTS tại xã Giao Phong khởi công từ tháng 4-2015 vẫn đang triển khai thực hiện.

Để phát triển NTTS theo hướng bền vững, tỉnh và các địa phương cần tiếp tục kêu gọi, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế đầu tư vào phát triển hạ tầng phục vụ NTTS như: cơ sở sản xuất giống thủy sản; xây dựng hệ thống thủy lợi tại các vùng nuôi nhuyễn thể, vùng nuôi tôm sú, vùng nuôi tôm thẻ chân trắng, vùng nuôi cá bống bớp… Hiện Sở NN và PTNT tiếp tục phối hợp cùng các huyện rà soát, đánh giá về điều kiện cơ sở hạ tầng phục vụ NTTS tại các vùng tập trung, đề xuất các dự án cải tạo nâng cấp nhằm phát triển mạnh NTTS theo hướng hàng hóa, nâng cao giá trị gia tăng và thích ứng với biến đổi khí hậu.


Có thể bạn quan tâm

Nhân Giống “Cá Tiến Vua” Để Xóa Nghèo Ở Quang Bình Nhân Giống “Cá Tiến Vua” Để Xóa Nghèo Ở Quang Bình

Nước ta có rất nhiều loài cá quý hiếm và nhiều loài đã trở thành truyền thuyết, được gán cho những mỹ danh, hư cấu thành huyền thoại. Thật may mắn, khi tỉnh Hà Giang - nơi địa đầu của Tổ quốc cũng có những loài cá huyền thoại đó và được dân gian ví von là “Ngũ quý hà thủy”, gồm: Cá Anh vũ, Dầm xanh, Lăng, Chiên và cá Bỗng.

31/07/2013
Hiệu Quả Từ Sản Xuất Nông Lâm Kết Hợp Hiệu Quả Từ Sản Xuất Nông Lâm Kết Hợp

Gia đình ông Đỗ Ngọc Tuyên, ở thôn Đắk Lập, xã Đắk D’rồ (Krông Nô) hiện có hơn 30 ha, trong đó hơn một nửa diện tích là đất đồi. Theo như lời ông kể thì trước đây toàn bộ diện tích này là đất bạc màu nên gia đình ông chỉ trồng mì, ngô nhưng năng suất thấp.

31/07/2013
Trồng Mía Xen Lạc Sử Dụng Nilon Tự Hủy Trồng Mía Xen Lạc Sử Dụng Nilon Tự Hủy

Trong mấy năm gần đây phương pháp trồng mía xen đậu tương hoặc lạc có che phủ nilon tự hủy của Trường ĐHNN1 Hà Nội đã được bà con nông dân áp dụng rộng rãi tại nhiều vùng trồng mía nguyên liệu vụ xuân ở các tỉnh phía Bắc như Thanh Hoá, Hoà Bình, Tuyên Quang v.v...cho hiệu quả cao.

31/07/2013
Quy Trình Nuôi Tôm Công Nghiệp Khép Kín Quy Trình Nuôi Tôm Công Nghiệp Khép Kín

Sau một thời gian dài đối mặt triền miên với dịch bệnh, hàng loạt đầm tôm công nghiệp của người dân trên địa bàn huyện Đầm Dơi (Cà Mau) bỏ trống. Thế nhưng, những tháng gần đây nuôi tôm công nghiệp có dấu hiệu phục hồi trở lại khi quy trình sản xuất cũ được thay đổi bằng quy trình nuôi mới an toàn, đạt chất lượng, hiệu quả cao. Đây thật sự là một tín hiệu vui không chỉ cho nông dân mà còn cho nền kinh tế của huyện.

01/08/2013
Chiêm Ngưỡng Bụi Củ Mì Khổng Lồ Chiêm Ngưỡng Bụi Củ Mì Khổng Lồ

Những ngày qua, nhiều người dân hiếu kỳ kéo đến chùa Phước Thạnh - Cây Dương (ấp Phước Thuận, xã Phước Chỉ, huyện Trảng Bàng - Tây Ninh) để chiêm ngưỡng bụi củ mì khổng lồ nặng trên 90kg, trong đó củ to nhất có chiều dài khoảng 1m, nặng gần 12kg.

01/08/2013