Mô Hình Nuôi Tắc Kè Hoa Của Một Nông Dân

Chú Dương Văn Chúc cho biết, cách đây 2 tháng, chú có dịp tham quan mô hình nuôi tắc kè hoa tại thị trấn Tân Châu, tỉnh Tây Ninh. Được chủ trang trại giới thiệu về cách chăm sóc cũng như hiệu quả kinh tế của loại vật nuôi này, chú đã bỏ ra 2 triệu đồng mua 100 con giống tắc kè về nuôi thử. Theo chú Chúc, để phân biệt con đực, con cái thì nhìn vào hình dáng của chúng, con đực thường lớn hơn con cái. Trong 100 con tắc kè chú đang nuôi, có hơn 10 con đực, còn lại là con cái. Về chuồng trại không cần cầu kỳ lắm, chỉ xây bằng gạch, lợp tôn, xung quanh bao lưới kẽm để tắc kè không bỏ đi. Trong chuồng thiết kế các kệ, ống nhựa và các loại cây gỗ để tắc kè có nơi trú ẩn.
Về chế độ ăn uống, thức ăn của tắc kè chủ yếu là mối đất, mối cách, dế và các loại côn trùng. Tắc kè ăn suốt ngày, đói lúc nào là ăn lúc đó, vì vậy chúng rất mau lớn. Cách đây 2 tháng, khi mới nuôi chúng chỉ bằng đầu ngón tay cái thì nay đã nặng gần 200g. Song song với nuôi tắc kè, chú Chúc còn đầu tư nuôi khoảng 20 thùng dế, mỗi thùng khoảng 4 đến 5kg dế. Thức ăn của dế chủ yếu là cám thực phẩm và các loại rau, lá cây mì. Dế nuôi khoảng 35 đến 40 ngày là có thể xuất bán, một kg dế khoảng 50.000 đồng. Chú Chúc cho biết, nuôi tắc kè kết hợp nuôi dế là để sử dụng dế làm thức ăn cho tắc kè. Tắc kè rất khoẻ, không hề bị bệnh, nếu có chết là do chúng cắn nhau trong lúc giành thức ăn. Tắc kè nuôi chừng 6 tháng là sinh sản, một con tắc kè đẻ một năm hai lần vào đầu và cuối mùa mưa, mỗi lần đẻ khoảng 10 trứng, chúng ấp trứng như trong môi trường tự nhiên nên tỷ lệ nở đạt thấp, khoảng 50%. Trong quá trình tắc kè ấp trứng cần kiểm soát kỹ nếu không sẽ bị các con tắc kè khác ăn mất trứng.
Cũng theo chú Chúc, nếu nuôi đạt yêu cầu, khoảng 6 đến 7 tháng là có thể xuất bán tắc kè thịt. Giá tắc kè thịt khoảng 200.000 đồng/kg, đầu ra cho sản phẩm này hiện nay trên thị trường rất rộng, có thể xuất bán cho các nhà hàng ở TP.HCM hoặc xuất khẩu sang Trung Quốc để làm thuốc. Tuy nhiên, khó khăn lớn nhất hiện nay của chú Chúc là không có một tài liệu nào nói về cách nuôi loài vật này. Trong quá trình nuôi phải tự tìm tòi, học hỏi kinh nghiệm từ những người đi trước. Bên cạnh đó, trong quá trình xuất bán nếu không được cơ quan chức năng cấp giấy phép thì rất khó cho quá trình vận chuyển, vì đây là loại động vật hoang dã.
Chú Nguyễn Xuân Thái, Chủ tịch Hội Nông dân xã Định Hiệp, cho biết hiện nay hội viên nông dân xã đang đầu tư nhiều mô hình kinh tế như nuôi rắn, cá sấu, ếch, kỳ đà, ba ba, cá lóc... Những mô hình này phát triển tốt và đang mang lại lợi nhuận cao. Riêng mô hình nuôi tắc kè kết hợp nuôi dế của hội viên nông dân Dương Văn Chúc tuy mới ở bước thử nghiệm nhưng hứa hẹn mang lại hiệu quả kinh tế cao. Nếu mô hình này thành công, hội sẽ nhân rộng để các hội viên khác học tập để phát triển kinh tế gia đình.
Có thể bạn quan tâm

Nên bón thêm phân hữu cơ bởi phân hữu cơ không những cung cấp dinh dưỡng cho cây mà còn cải thiện tính chất vật lý, hóa học, sinh học trong đất. Nguồn phân hữu cơ bao gồm phân chuồng, phân xanh và các nguyên liệu ép xanh. Sử dụng phân hữu cơ sinh học có thành phần chính: Chất hữu cơ >25%; N 2,5-3%; P205 0,3%; K20 1-1,3%; lượng bón 2,5 tấn/ha/năm. Có thể sử dụng phân chuồng ủ hoai 20 - 25 tấn/ha, bón 3 năm/lần. Phân hữu cơ bón vào đầu mùa mưa, rạch hàng, bón lấp.

Trong những năm qua, công tác quản lý hoạt động kinh doanh vật tư nông nghiệp (phân bón, thuốc BVTV, thức ăn chăn nuôi) trên địa bàn tỉnh đã được các cấp, các ngành quan tâm. Thị trường vật tư nông nghiệp tương đối ổn định, hoạt động sản xuất kinh doanh của các tổ chức cá nhân đã đi vào nền nếp.

Trái với tình hình thị trường ảm đạm hồi cuối năm ngoái, khoảng hơn một tháng nay, nhà vườn ở “vương quốc sầu riêng” của Tiền Giang, gồm các xã Long Trung, Tam Bình, Ngũ Hiệp (H.Cai Lậy)... rất vui mừng vì mùa sầu riêng nghịch vụ vừa trúng mùa, lại trúng đậm giá.

Cụ thể là các vùng nguyên liệu sản xuất giống jasmine; giống gạo trắng, chất lượng cao; giống đặc sản (như ST, nàng thơm chợ Đào... hiện chủ yếu tiêu thụ nội địa, không đủ hàng xuất khẩu); giống nếp, giống hạt tròn (nhu cầu các nước Đông Á và châu Âu rất cao) và giống chất lượng trung bình, thấp.

Với diện tích rừng tương đối lớn, Việt Nam có nhiều loài lâm sản ngoài gỗ (LSNG) có giá trị. Tuy nhiên, hiện nay, nhiều loài LSNG chưa được khai thác, bảo tồn hiệu quả, thậm chí có nguy cơ biến mất.