Làm giàu từ nuôi cá song chuột

Đặc điểm sinh học
Cá song chuột rất dễ phân biệt với các loài cá khác bởi phần đầu nhỏ so với phần thân, có 1 đôi răng nanh rất nhỏ ở phân trên trước hàm, phía sau lỗ mũi có một đường chẻ. Thân cá có hình thoi, dẹt bên rõ rệt. Vây đuôi lồi tròn, toàn thân có màu nâu xám với những chấm đen tròn rải rác trên đầu, thân và vây.
Các điểm chấm trên cơ thể phần thân nhìn chung là rộng hơn so với ở phần đầu, phần vây. Chiều dài thân cá lớn nhất có thể đạt 70 cm, thông thường 40 - 50 cm. Cá song chuột có khoảng 9 điểm gần tròn màu tối như vết bẩn trên cơ thể, một số kéo dài đến phần vây lưng và vây hậu môn.
Trên thế giới, cá song chuột phân bố ở Tây Thái Bình Dương, phía nam biển Nhật Bản, biển Australia, biển Ấn Độ…; cá có phân bố ở Việt Nam nhưng số lượng không đáng kể. Cá thường sống ở những nơi có độ sâu 2 - 40 m, nơi có đáy là những rạn đá, rạn san hô của các vùng đầm phá, vùng vịnh.
Tiềm năng phát triển
Cá song chuột đã được phát triển nuôi thương phẩm ở Trung Quốc, Hồng Kông, Đài Loan, Hawaii (Mỹ) với mô hình chủ yếu là nuôi trong lồng, bè nổi trên biển. Ngoài ra, nó còn phát triển tốt khi nuôi trong ao đất với độ mặn 15 - 34‰.
Thức ăn của cá song chuột có nguồn gốc động vật, vì vậy ngoài thức ăn công nghiệp loại thường dùng cho các loại cá song còn có thể tận dụng cá tạp và giáp xác nhỏ để tiết kiệm chi phí thức ăn và giảm giá thành sản phẩm.
Mặc dù, có tốc độ tăng trưởng chậm, sau thời gian nuôi 18 - 20 tháng nuôi, cá đạt trọng lượng trên 500 g, nhưng giá thương phẩm rất cao nên vẫn đem lại mức lợi nhuận khá lý tưởng cho người nuôi. Hiện, cá song chuột ở Việt Nam có giá 700.000 - 900.000 đồng/kg, rẻ hơn nhiều so với thị trường Trung Quốc với giá bán trên 100 USD/kg. Cá song chuột có khả năng chống chịu với dịch bệnh tốt.
Hiện, Trung tâm Quốc gia Giống hải sản miền Bắc, trực thuộc Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I, đã làm chủ công nghệ sản xuất giống và nuôi thương phẩm cá song chuột. Mỗi năm, cung cấp ra thị trường 100.000 - 150.000 cá giống cỡ 5 - 8 cm/con với giá 4.000 - 5.000 đồng/con.
Theo các chuyên gia trong lĩnh vực thủy sản, áp dụng quy trình nuôi cá song chuột thương phẩm của Trung tâm Quốc gia Giống hải sản miền Bắc sẽ giảm giá thành nuôi và đạt hiệu quả kinh tế cao hơn.
Theo các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật của quy trình công nghệ này, tỷ lệ thành thục của cá cái đạt 91,8% và cá đực là 94,6%; tỷ lệ sống của cá giai đoạn từ cá bột lên cá hương 3,5 - 6,2%; tỷ lệ sống của cá giai đoạn từ cá hương lên cá giống hơn 70%; cá giống 90 ngày tuổi có tổng chiều dài 7,5 - 9 cm.
Cá song chuột sau thời gian nuôi 15 tháng, từ cỡ cá giống đến kích cỡ cá thương phẩm, đạt trọng lượng trên 0,5 kg; tỷ lệ sống hơn 66%. Thời gian gần đây, ở một số địa phương như Cát Bà, Hải Phòng, Vũng Tàu, Kiên Giang đã nuôi thành công đối tượng này.
Chủ động sản xuất giống cá song chuột là thuận lợi lớn để phát triển nuôi thương phẩm loài này. Tuy nhiên, các hộ nuôi chủ yếu phát triển nuôi nhỏ lẻ và là đối tượng mới nên người nuôi vẫn gặp khó khăn trong việc tiếp cận với một số thị trường xuất khẩu tiềm năng loài cá này như Hồng Kông, Trung Quốc...
Có thể bạn quan tâm

Nhiều năm liền, anh Lê Thanh Hải ở ấp 8, xã Long Trung, huyện Cai Lậy (Tiền Giang) chủ động xử lý sầu riêng ra hoa nghịch vụ khắc phục tình trạng "được mùa, thất giá", góp phần nâng cao mức sống gia đình.

Nhắc đến sản vật của vùng đất Đông Triều (Quảng Ninh), ngoài nếp cái hoa vàng còn có na dai. So với sản phẩm cùng loại ở những nơi khác, na dai Đông Triều có đặc trưng riêng, như: Quả to; vỏ mỏng, bóng, có màu vàng khi chín; vị ngọt đậm, mùi thơm; không cát. Và đây cũng chính là những lợi thế để na dai Đông Triều có được chỗ đứng trên thị trường.

Hiện tượng hành ra hoa rất hiếm. Ca dao có câu: Bao giờ cho chuối có cành / cho sung có nụ, cho hành có hoa / Bao giờ chạch đẻ ngọn đa / sáo đẻ dưới nước thì ta lấy mình...

Đến ấp 7, xã Khánh Bình Đông, huyện Trần Văn Thời (Cà Mau), hỏi ông Hai làm lờ cá, thì hầu như ai cũng biết. Đó là ông Thạch Lợi (67 tuổi), một tấm gương vượt khó vươn lên thoát nghèo tiêu biểu của người dân tộc Khmer.

Bị khuyết tật (gù lưng), nhưng vượt qua khó khăn, anh Hoàng Trọng Hậu (sinh năm 1976, ở thôn Tam Đa, xã Tam Đa, huyện Phù Cừ, Hưng Yên) bây giờ có thu nhập hàng trăm triệu đồng mỗi năm từ phát triển chăn nuôi lợn, gà, vịt...