Kỹ Thuật Phòng, Trị Bệnh Tiên Mao Trùng Ở Trâu, Bò
Bệnh tiên mao trùng là bệnh ký sinh trùng đường máu, trâu rất mẫn cảm với bệnh này. Bệnh không lây trực tiếp từ con vật ốm sang con vật lành mà do các loại ruồi trâu và mòng hút máu truyền bệnh. Trâu, bò, ngựa ở mọi lứa tuổi đều có thể bị bệnh. Bệnh nặng có thể dẫn đến tử vong, nhẹ thì có biểu hiện thiếu máu, suy nhược, mất dần khả năng lao động.
Bệnh thường xảy ra vào các tháng nóng ẩm, từ tháng 4 - 9 khi ruồi, mòng phát triển mạnh.
* Triệu chứng và bệnh tích
Trâu, bò bị bệnh có các triệu chứng như sốt cao 40 - 41độ C. Sốt 1 - 2 ngày liền, sau đó nhiệt độ hạ xuống mức bình thường. Sau 2 - 6 ngày, nhiệt độ lại tăng, cứ như thế lặp đi lặp lại nhiều đợt (sốt làn sóng). Khi con vật sốt cao thường thể hiện triệu chứng thần kinh: quay cuồng, đi vòng tròn, run rẩy…(triệu chứng này thường có ở trâu, bò bị bệnh cấp tính).
Khi bị bệnh tiên mao trùng, trâu, bò bị thiếu máu và suy nhược. Bệnh có thể kéo dài 1-2 tháng, con vật ngày càng gầy, da khô mốc. Sức khoẻ suy yếu dần, kém ăn, kém nhai lại, đi phân táo có lẫn máu hoặc đi tháo lỏng mùi thối khắm. Có khi con vật đi ỉa ra cả màng ruột, nát từng đoạn.
Niêm mạc mắt tụ máu màu đỏ tía, đôi khi có chấm máu, chảy nước mắt và mắt có nhiều dử đặc như keo. Có khi mắt sưng húp, sau 2 - 7 ngày mắt đỡ sưng. Niêm mạc mắt trở nên vàng nhạt hay sẫm. Các niêm mạc miệng, âm đạo cũng vàng. Thường thấy có thuỷ thũng ở hầu, ức, nách, chân, háng. Trường hợp bệnh nặng, con vật đột ngột sốt cao, bụng trướng to rồi lăn ra chết.
Khi mổ khám, thấy máu rất loãng, màu hồng. Trong lồng ngực, xoang bụng, bao tim có nước màu vàng da cam. Những chỗ thuỷ thủng chứa chất nhầy như keo. Thịt nhão, mỡ lầy nhầy màu vàng thẫm. Tim, phổi, lách đều sưng và tụ máu. Dạ cỏ, dạ tổ ong, dạ lá sách, ruột non, ruột già đều bị xuất huyết, tím bầm.
* Điều trị
Chú ý phát hiện bệnh sớm và chữa trị kịp thời, kết hợp 3 biện pháp sau đây:
- Dùng thuốc diệt ký sinh trùng như Phenoltridinium Naganin. Có thể dùng Nagagin với các mức độ khác nhau:
+ Nơi nhiễm tiên mao trùng nhưng chưa có biểu hiện lâm sàng nên phòng trị 1 đợt bằng Nagagin, liều lượng 0,01 g/kg khối lượng cơ thể vào dịp tháng 9 - 10 dương lịch, trước vụ đông giá rét hằng năm.
+ Nơi có bệnh xảy ra, trâu ốm, chết: năm đầu tiên phòng trị bằng Nagagin 2 đợt (tháng 3 - 4 và tháng 9 - 10 dương lịch). Từ năm thứ 2 trở đi, mỗi năm phòng trị một đợt vào tháng 9 - 10 dương lịch. Nếu dùng liên tục trong nhiều năm có thể thanh toán được bệnh tiên mao trùng trong từng khu vực nhất định.
+ Liều điều trị: 0,015 g/kg khối lượng cơ thể, pha dung dịch 10% nước cất. Tiêm tĩnh mạch hay tiêm bắp thịt. Tiêm hai ngày nghỉ một ngày, rồi lại tiêm lần thứ ba.
Tiêm trợ lực: nước sinh lý mặn 0,9%, liều lượng 150 - 250 ml, tiêm tĩnh mạch.
Nước sinh lý ngọt 5%: 200 - 300 ml, tiêm tĩnh mạch.
Cafein 20%: 11 - 20 ml hoặc long não nước 10%, liều lượng 40 - 50 ml.
Clorua canxi 10%: 70-100 ml, tiêm tĩnh mạch.
- Bồi dưỡng, chăm sóc: cho trâu ăn đầy đủ cỏ tươi, hỗn hợp tinh, bổ sung khoáng và vitamin.
- Tăng cường vệ sinh chuồng trại và môi trường xung quanh, tiêu diệt ruồi trâu và mòng.
Có thể bạn quan tâm
Theo TS. Phùng Quốc Quảng, trong dạ cỏ của bò sữa có các quần thể vi sinh vật có khả năng biên đổi phân giải nitơ trong urê và tổng hợp nên các chất đạm của cơ thể vi sinh vật nên chúng sử dụng được urê.
Sát nhau là hiện tượng nhau thai không thải ra ngoài trong vòng 6 giờ sau khi đẻ. Hiện tượng này hay gặp ở bò sữa và do các nguyên nhân: bò sữa ít được vận động nhất là vào 3 tháng chửa cuối khẩu phần thức ăn không thích hợp, nghèo chất khoáng, đặc biệt là can xi, bò bị đẻ khó hoặc xảy thai, bị viêm nội mạc tử cung...
Tử cung có thể bị lộn hoàn toàn ra ngoài sau khi bò đẻ. Hiện tượng này thường xảy ra ở những con bò già, đã đẻ nhiều lứa, ở những con chăm sóc, nuôi dưỡng kém, ít vận động và những con bò đẻ khó do thai to mà thao tác kéo thai quá mạnh.
Gia súc cần được cung cấp nước thường xuyên để đáp ứng các chức năng sinh lý của cơ thể. Nhu cầu nước của cơ thể con vật phụ thuộc vào bản chất thức ăn.