Không Thiếu Nguồn Giống Khoai Tây Đầu Dòng
Dự báo đến năm 2015, Đà Lạt phải phát triển khoảng 2.500ha diện tích khoai tây (năng suất trung bình trên dưới 25 tấn/ha) mới đáp ứng nhu cầu tiêu thụ trong và ngoài địa phương.
Mục tiêu xây dựng vùng nguyên liệu khoai tây này không khó đối với việc chủ động các nguồn giống đầu dòng; mà đặt ra yêu cầu ở việc hoạch định những giải pháp hợp lý để kích cầu nông dân Đà Lạt mở rộng sản xuất.
Ông Nguyễn Đức Bình, Phó Chủ tịch Hội Nông dân xã Xuân Thọ, một vùng chuyên canh khoai tây tập trung của Đà Lạt cho biết: Giai đoạn từ năm 2005 đến 2010, nông dân xã Xuân Thọ duy trì sản xuất hàng năm khoảng 300 ha diện tích khoai tây, trong đó gồm 200 ha diện tích Đông - Xuân chính vụ (năng suất trên dưới 25 tấn/ha) và 100 ha diện tích Hè - Thu trái vụ (năng suất hơn 20 tấn/ha).
Toàn bộ diện tích khoai tây đều là nguồn giống đầu dòng, trong đó chiếm 90% là sản xuất từ nguồn củ giống tốt nhất do nông dân tự chọn lựa giữ lại từ vụ mùa thu hoạch ngay trước đó; 10% nguồn giống còn lại sản xuất từ cây đầu dòng cấy mô do nông dân mua từ các tổ chức, cá nhân sản xuất giống có uy tín tại Đà Lạt. Việc thu mua sản phẩm khoai tây được các thương nhân đến tận vườn sản xuất của hộ gia đình để thỏa thuận giá (trên đơn vị kg) trước khi thu hoạch khoảng 1 tuần lễ, sau đó chuyển đi tiêu thụ ở các đầu mối phân phối tại Sài Gòn.
Tuy nhiên từ năm 2011 đến nay, mặc dù không thiếu nguồn giống khoai tây đầu dòng chất lượng cao từ củ giống và giống cây cấy mô vừa nêu, nhưng diện tích khoai tây ở Xuân Thọ, Đà Lạt cứ liên tục giảm xuống. Cụ thể đến vụ Đông- Xuân 2012 - 2013 giảm xuống còn khoảng 150 ha; Hè- Thu năm 2013 giảm xuống còn 40 ha.
Theo thạc sĩ Nguyễn Thế Nhuận, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu khoai tây, rau và hoa Lâm Đồng, nông dân Đà Lạt trồng khoai tây chủ yếu với nguồn củ giống tự sản xuất đến vụ thứ 3, thứ 4 từ nguồn giống đầu dòng cấy mô được Trung tâm và các cơ sở cấy mô trong thành phố cung cấp.
Trong năm vừa qua (tính từ tháng 7/2012 đến tháng 7/2013), Trung tâm bán ra khoảng 1,5 triệu các loại cây giống khoai tây cấy mô chất lượng cao, trong đó chiếm tỷ lệ ước chừng vài phần trăm cây giống nông dân Đà Lạt mua về để trồng trong mùa Hè - Thu năm 2013; còn lại phần lớn là mua về trồng chính vụ Đông - Xuân 2012 - 2013. Trước đó vào cuối năm 2010, Trung tâm đã trồng khảo nghiệm thành công 2 giống khoai tây thích nghi cả mùa khô và mùa mưa Đà Lạt là TK 96.1 và PO3, sau đó được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cấp phép sản xuất trên cả nước.
Hai giống khoai tây mới này (được Trung tâm nghiên cứu lai tạo trong nhiều năm từ các nguồn giống đầu dòng nhập về từ nước ngoài) với những đặc tính nổi trội là đề kháng hiệu quả bệnh mốc sương - một loại bệnh phát sinh nhiều trong những ngày mưa Đà Lạt và cho năng suất bằng và cao hơn so với khoai tây trồng chính vụ ở mùa khô, nhưng đến mùa mưa năm nay chỉ chiếm một số diện tích rải rác được nông dân trồng, thu hoạch trên đồng.
Trong 3 năm gần đây, Trung tâm luôn lưu giữ từ 500 - 600 nguồn gien giống khoai tây đầu dòng để nuôi cấy mô, nhưng “nguồn cung” này đã vượt xa so với nhu cầu sản xuất ngày càng thu hẹp.
Chủ cơ sở nuôi cấy mô ở Thái Phiên, Đà Lạt, ông Nguyễn Đăng Hiến, cho biết: Từ đầu tháng 5 đến gần cuối tháng 7/2013 (thời điểm đầu mùa mưa năm 2013), cơ sở ông Hiến mới bán được vài ngàn cây giống khoai tây cấy mô “già tuổi”, tức là cây giống “xuất kho” từ phòng nuôi cấy mô đưa ra ngoài vườn ươm nuôi cấy trên vỉ xốp từ 30 - 45 ngày trước khi đưa ra trồng ngoài đồng.
Còn tính chung từ đầu năm 2013 đến nay ở vùng Thái Phiên, Đà Lạt, cơ sở của ông Hiến bán ra giống cây khoai tây cấy mô với mỗi tháng chỉ khoảng 100 - 150 ngàn cây (trồng đúng quy cách với 40.000 cây/ha) thì mới chiếm khoảng 10% trên tổng số cây giống đã trồng.
Trong khi năng lực sản xuất giống cấy mô khoai tây đạt chất lượng cao của ông Hiến đạt tới 5 triệu cây/năm trở lên. Và tương tự như ở xã Xuân Thọ, vùng Thái Phiên với tỷ lệ 90% số cây giống khoai tây còn lại được nông dân tự sản xuất (bằng củ) để trồng trong 2 mùa mưa - nắng vừa qua.
Thống kê chưa đầy đủ, diện tích trồng khoai tây trên địa bàn Đà Lạt trong năm vừa qua chỉ mới dao động trên dưới 1.000ha, và diện tích này đang có chiều hướng giảm dần trong vụ Hè-Thu và vụ Đông- Xuân thời gian tới. Trong khi nguồn giống đầu dòng tại chỗ không thiếu, trình độ canh tác của nông dân ngày càng có điều kiện tiếp cận mới khoa học kỹ thuật, nhưng với đà này thì đến năm 2015,
Đà Lạt khó đạt mục tiêu mở rộng vùng nguyên liệu khoai tây lên khoảng 2.500ha. Thiết nghĩ ngay từ bây giờ, các cơ quan chức năng của Đà Lạt cần triển khai cấp thiết các giải pháp quy hoạch mới, tạo thêm nhiều nguồn hỗ trợ vốn, hỗ trợ thị trường đối với người sản xuất khoai tây.
Có thể bạn quan tâm
Trong bản báo cáo tuần trước của đoàn kiểm tra cho biết, đoàn đã hoàn thành việc kiểm tra 90% số kho dự trữ toàn quốc, đã phát hiện ra gần 3 triệu tấn gạo bị hư hỏng nặng không dùng được cho người nhưng có thể dùng cho các mục đích khác như sản xuất ethanol, làm thức ăn chăn nuôi hoặc các ngành công nghiệp khác.
Ca cao trồng ở Việt Nam, đặc biệt tại Bến Tre, được các nhà nhập khẩu đánh giá là cho trái có chất lượng tốt hàng đầu thế giới. Lúc cao điểm, năm 2012, diện tích ca cao của Bến Tre lên đến 10.600ha.
Ngày 13/8, Viện Khoa Học Kỹ Thuật Nông Lâm Nghiệp Tây Nguyên (WASI) cho biết đơn vị phối hợp cùng công ty Nestlé Việt Nam triển khai dự án hỗ trợ nông dân trồng cà phê ở các tỉnh Lâm Đồng, Đắk Lắk, Đắk Nông, Gia Lai gần 6,9 triệu cây giống cà phê.
Để làm rõ hơn về những lo ngại liên quan tới chất lượng an toàn vệ sinh thực phẩm, đặc biệt là quy trình kiểm tra xử lý doanh nghiệp vi phạm như thế nào, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn ông Nguyễn Xuân Hồng, Cục trưởng Cục Bảo vệ thực vật (Bộ NN-PTNT) về những nội dung liên quan.
Hiện, vùng nuôi nghêu ven biển Gò Công (Tiền Giang) đã qua thời gian nghêu chết hàng loạt (tháng 2-3 hàng năm), nghêu đang phát triển tốt. Đây được coi là yếu tố thuận lợi giúp nghề nuôi nghêu phục hồi và phát triến sau nhiều năm liên tục bị thiệt hại nặng. Tuy nhiên, xét về tổng quan thì nghề nuôi nghêu ven biển ngày càng đối diện với nhiều khó khăn.