Khởi nghiệp với mô hình nuôi lươn giống

Anh Thuận tự tìm hiểu sách báo, tham quan, học tập kinh nghiệm ở nhiều nơi về mô hình nuôi lươn giống nhân tạo để áp dụng cho mô hình của mình.
Lấy thất bại làm động lực
Nói là làm, anh Thuận bắt đầu mô hình nuôi lươn giống nhân tạo từ một năm nay.
Bằng những kinh nghiệm có được từ đợt nuôi đầu tiên, lần nuôi này, anh Thuận cho ép lươn giống nhân tạo và nuôi không bùn theo kiểu để vỉ tre và dây bẹ vào trong bồn.
“Đi tham quan, học tập, chứng kiến những mô hình thực tế, điều đó càng giúp mình có thêm kinh nghiệm cho bản thân”, anh Thuận chia sẻ.
Nuôi lươn giống thì khâu chọn lươn bố mẹ khá quan trọng.
Nếu lươn giống bố mẹ tự lai tạo, nuôi lớn và cho sinh sản thì tỷ lệ đạt từ 60 - 70%, còn giống trôi nổi, không xác định xuất xứ thì lươn vẫn cho sinh sản nhưng tỷ lệ hao hụt rất cao, có thể chết hết cả ổ trứng.
Nuôi lươn bằng vỉ tre và dây bẹ, nguồn nước trong nên rất dễ quan sát, theo dõi
Bồn nuôi lươn bố mẹ cần không gian rộng rãi, có ụ đất để cho lươn đẻ trứng, với bồn khoảng 15m2 thì thả khoảng 150 con lươn bố mẹ để cho sinh sản.
Với lươn thương phẩm, diện tích không cần lớn, vì loại này có thể chịu được mật độ dày, chỉ cần 4m2 có thể thả khoảng 1.000 con.
Lươn nuôi khoảng một năm hoặc khi lươn đạt trọng lượng từ 200gram trở lên có thể cho sinh sản.
“Đối với loại này, có thể ép sinh sản bất kỳ thời điểm nào trong năm.
Còn với lươn nuôi được 5, 6 tháng vẫn có thể ép trứng nhưng chỉ có thể cho đẻ theo mùa và lượng trứng không nhiều”, anh Thuận giải thích.
Trong năm, lươn có thể sinh sản 3 lần.
Đặc điểm của lươn mẹ, khi mang trứng sẽ ăn rất ít hoặc không ăn, nên khi sinh xong cần giữ lại, cho ăn đầy đủ để 3 tháng sau lươn có thể sinh sản tiếp.
“Thông thường, tôi sẽ cho lươn sinh sản một lần rồi xuất bán lươn thương phẩm.
Như vậy, mình vừa có nguồn thu lươn giống, vừa có lợi từ lươn thương phẩm”, anh Thuận nói thêm.
Khó nhất là giai đoạn ấp trứng, vì đòi hỏi kỹ thuật và phải theo dõi sát để tránh hao hụt.
Thời gian đầu cho lươn ăn trùn chỉ là tốt nhất vì cung cấp đủ đạm, chất dinh dưỡng cho lươn phát triển.
Khi lươn đạt đến khoảng 1.000 con/kg thì có thể cho lươn dặm thêm cá, ốc xay.
Thành công nhờ đổi mới
Thay vì nuôi lươn theo kiểu truyền thống, anh Thuận áp dụng hình thức dùng vỉ tre và dây bẹ để trong bồn.
“Nuôi theo kiểu mới sẽ giảm chi phí hơn rất nhiều, có thể giảm khoảng 50%, vì vỉ tre và dây bẹ khá rẻ, nếu sử dụng kỹ có thể dùng trong 2 năm.
Ngoài ra, nhờ thay nước thường xuyên (2 lần/ngày), nên dễ quan sát lươn, có bệnh cũng phát hiện kịp thời”, anh Thuận chia sẻ.
Môi trường nước sạch nên lươn thương phẩm khi bán ra thị trường không có mùi hôi, được ưa chuộng.
Thông thường, lươn hao hụt do bể nước dơ, phát sinh bệnh về đường ruột, đây là bệnh thường gặp nhất khi nuôi lươn.
“Nếu sử dụng nguồn nước sông, phải qua xử lý, lắng lọc trước khi bơm vào bồn; ốc, cá phải được nấu chín và xay trước khi cho lươn ăn”, anh Thuận cung cấp thêm.
Thời tiết thay đổi rất dễ ảnh hưởng đến quá trình sinh trưởng của lươn nên phải che chắn kỹ lưỡng.
Hiện, anh Thuận đang nuôi khoảng 10 bồn lươn bố mẹ cho sinh sản, với diện tích khoảng 15m2/bồn.
Còn lươn giống thì khoảng 30m2, nhưng chia làm nhiều bồn nhỏ, với nhiều loại lươn lớn nhỏ khác nhau.
Bằng hình thức nuôi mới, lươn phát triển nhanh, ít hao hụt
Cơ sở nuôi của anh Thuận thường xuyên có đơn đặt hàng từ Trung tâm Giống thủy sản An Giang, các đầu mối ở TP.
Hồ Chí Minh, Hà Nội, Tây Nguyên… mỗi lần khoảng vài chục ngàn con.
Đó là chưa kể những người dân ở các huyện lân cận cũng đến mua.
Mỗi lần bán, anh Thuận đều hướng dẫn kỹ kỹ thuật rất chu đáo để người nuôi tránh hao hụt và đạt tỷ lệ thành công cao.
Theo anh Thuận, tháng 2, 3 âm lịch là thời điểm lươn sinh sản mạnh và thuận lợi nhất để lai tạo lươn giống.
Tùy thuộc vào kích cỡ 300 con/kg, 400 con/kg, 500 con/kg, 1.000 con/kg giá lươn giống dao động từ 3.000 - 6.000 đồng/con.
Có thể bạn quan tâm

Vụ xuân này, những cánh đồng ngô ở huyện vùng cao Võ Nhai (Thái Nguyên) đều xơ xác, gầy guộc, thậm chí bị cháy nắng. Nhưng những thửa ruộng ngô lai HT 818, HT 119 tươi tốt đã khiến cả cán bộ chuyên môn và bà con nghĩ đến việc thay đổi giống ngô.

Vài năm trở lại đây, nông dân ngày càng xa rời cây mía vì cho rằng Nhà máy Đường Phổ Phong (Nhà máy) ép họ trong quá trình đầu tư sản xuất cũng như thu mua. Niên vụ 2013 - 2014, Nhà máy thu mua mía nguyên liệu với giá 850.000 đồng/tấn loại 10 chữ đường (CCS), thấp hơn năm trước 50.000 đồng/tấn.

Cách nay hơn 4 năm, phong trào nuôi nhím trên địa bàn huyện phát triển rầm rộ. Tuy nhiên, đầu ra của loài vật nuôi này rất bấp bênh. Trong khi đó, chồn mướp là vật nuôi mới lạ, cho giá trị kinh tế cao mà số lượng hộ nuôi không nhiều. Vì thế, anh Nhi dành thời gian tìm hiểu kỹ thuật nuôi, cách làm chuồng...

Năm 2014, tại tỉnh Vĩnh Phúc, Dự án xây dựng mô hình trình diễn với quy mô 160 con bò, 130 lượt nông dân được tập huấn kỹ thuật. Sau khi được tham gia tập huấn các hộ đã biết áp dụng những kiến thức đã học vào thực tế chăn nuôi tại gia đình như: Cách tẩy nội, ngoại ký sinh trùng, cho ăn thức ăn hỗn hợp kết hợp thức ăn thô xanh, cách trồng và ủ chua thức ăn xanh… nên đàn bò khỏe mạnh, lớn nhanh, tăng trọng bình quân 738,5 g/con/ngày, bình quân mỗi bò vỗ béo cho lãi từ 1,5 - 2 triệu đồng/con/tháng. Như vậy nuôi bò vỗ béo cho hiệu kinh tế cao hơn so với nuôi thông thường > 15%.

Theo các nhà vườn trồng cam xoàn trong huyện, hàng năm mỗi héc-ta cam xoàn cho năng suất từ 20-25 tấn trái/năm, có thể thu lợi nhuận từ 200-250 triệu đồng. Theo dự báo của ngành nông nghiệp huyện, diện tích trồng cam xoàn ở huyện Long Mỹ sẽ còn tăng nhiều trong thời gian tới.