Hướng Mở Cho Sản Xuất Chè Bền Vững
Tiềm năng có thừa, thị trường xuất khẩu rộng mở nhưng ngành chế biến, xuất khẩu chè Việt Nam vẫn còn những nghịch lý từ trong nội tại như quy mô sản xuất nhỏ, có quá nhiều cơ sở sản xuất nhỏ lẻ khiến nguồn cung nguyên liệu không đáp ứng được công suất chế biến của các nhà máy, giá xuất khẩu thấp,…
Nâng cao năng suất, chất lượng chè đang là một đòi hỏi cấp thiết và một trong những giải pháp để hoá giải thách thức này là đẩy mạnh hợp tác công – tư (PPP).
Giàu tiềm năng sao vẫn nghèo?
Phải khẳng định rằng, Việt Nam có nhiều vùng chè ngon nổi tiếng nhưng cho đến thời điểm này, nông dân vẫn chưa thể giàu lên nhờ cây chè. Nguyên nhân của tình trạng này không mới: Do quy mô sản xuất quá nhỏ (bình quân chỉ 0,2ha/hộ nên khó áp dụng tiến bộ kỹ thuật); nhiều cơ sở chế biến được cấp phép hoạt động nhưng không có nguồn nguyên liệu, dẫn đến tình trạng tranh mua tranh bán (hiện số lượng nhà máy có đầu tư vùng nguyên liệu chỉ chiếm khoảng 35,5%, nhà máy áp dụng tiêu chuẩn ISO, HACCP chỉ chiếm 16%); cơ cấu sản phẩm chủ yếu là chè đen, các loại chè chất lượng cao như chè xanh, ô long,… còn hạn chế; do chưa xây dựng được thương hiệu nên giá xuất khẩu chè của chúng ta thấp hơn nhiều so với các nước khác.
Ông Nguyễn Hữu Tài, Chủ tịch Hiệp hội Chè Việt Nam cho biết, từ năm 2005 trở về trước, hầu hết các doanh nghiệp đều tổ chức sản xuất theo chuỗi giá trị, nghĩa là mỗi đơn vị đều có vùng nguyên liệu của riêng mình, trên cả nước đã hình thành nhiều vùng chè lớn. Nhưng từ năm 2005 (thời điểm Luật Doanh nghiệp ra đời) đến nay, sự bung nở của nhiều cơ sở chế biến chè mini đã phá vỡ mối liên kết giữa nhiều doanh nghiệp với người trồng chè.
Vùng nguyên liệu gồng mình gánh công suất của các nhà máy giờ đã vượt gấp 2 lần khả năng cung cấp nên không có gì khó hiểu khi các đơn vị “dẫm đạp” lên nhau để thu mua, nông dân vì lợi nhuận cũng dùng đủ các loại hoá chất để kích thích chè phát triển, cũng chẳng cần nâng niu “1 tôm 2 lá” làm gì mà dùng liềm hái cho nhanh.
Ông Đồng Xuân Quảng, Phó cục trưởng Cục Trồng trọt (Bộ Nông nghiệp và PTNT) cho rằng, tình trạng các doanh nghiệp thu mua bằng mọi giá, không theo tiêu chuẩn chất lượng rất nguy hiểm, vì sẽ khiến nông dân không sản xuất, thu hoạch theo chất lượng mà chạy theo số lượng.
“Sự thiếu liên kết giữa doanh nghiệp và nông dân không chỉ xảy ra với ngành chè mà còn là lỗ hổng lớn của nhiều ngành hàng nông sản khác. Muốn cải thiện được tình trạng này, cần có sự chỉ đạo mạnh mẽ từ Chính phủ, sự vào cuộc của các bộ ngành và địa phương”, ông Quảng nói.
Cả nước hiện có khoảng 135.300ha chè, trong đó chè làm nguyên liệu cho chế biến là 128.200ha, chè tươi hái lá 7.200ha. Năng suất chè năm 2013 đạt 79,5 tạ búp tươi/ha; sản lượng 909.7000 tấn; kim ngạch xuất khẩu đạt 222 triệu USD. Riêng 3 tháng đầu năm 2014, giá trị kim ngạch xuất khẩu chè đạt 37 triệu USD, sản lượng 24.000 tấn.
Tại Yên Bái, dù Tỉnh uỷ đã có hẳn một nghị quyết về ngành chè với mục tiêu làm cho nông dân sống được bằng cây chè, chè cũng được xác định là cây chủ lực của tỉnh nhưng những tồn tại của ngành vẫn rất ngổn ngang, không thể giải quyết trong một sớm một chiều.
Theo ông Phạm Văn Lãi, Giám đốc Sở Nông nghiệp và PTNT Yên Bái, toàn tỉnh có 503 cơ sở chế biến, kinh doanh chè nhưng không doanh nghiệp nào đạt loại A trong đợt khảo sát năm 2013, một số đơn vị đạt loại B, còn lại đa phần là loại C.
Đặc biệt, có 18 cơ sở phải hoàn thiện những cảnh báo của tỉnh nếu không sẽ bị rút giấy phép kinh doanh nhưng thực tế việc này không hề đơn giản khi thẩm quyền rút giấy phép không thuộc về Sở Nông nghiệp và PTNT. Yên Bái còn có vùng chè Shan Suối Giàng nổi tiếng nhưng do tình trạng các cơ sở mang chè từ nơi khác lên trộn lẫn vào để bán với giá cao đã khiến chất lượng chè giảm sút, niềm tin của người tiêu dùng với chè Suối Giàng bị lung lay.
Tương tự, tỉnh Phú Thọ có khoảng 16.000ha chè, trong đó chỉ có 25% diện tích thuộc về các doanh nghiệp, còn lại là của nông dân. Toàn tỉnh có 61 nhà máy chế biến (hiện chỉ còn 56 doanh nghiệp đang hoạt động) nhưng có đến 700 cơ sở chế biến nhỏ và siêu nhỏ. Hiện, công suất của các nhà máy, cơ sở đã vượt gấp 2 lần khả năng cung ứng của vùng nguyên liệu. Trong số các doanh nghiệp chè trên địa bàn tỉnh, chỉ có 26% cơ sở thu mua theo hợp đồng, số đơn vị được xếp loại A cũng chỉ đếm trên đầu ngón tay.
Đẩy mạnh hợp tác công - tư
Từ thực tế trên, ông Tài cho rằng, muốn liên kết được doanh nghiệp và nông dân, chính quyền các địa phương phải phân vùng nguyên liệu một cách cụ thể, sản xuất theo hợp đồng và có những chế tài, quy định rõ ràng để xử lý khi xảy ra vi phạm. Những nhà máy chưa xây dựng được vùng nguyên liệu phải nhanh chóng hoàn thiện theo một lộ trình do chính quyền địa phương đặt ra.
Ông Lãi cũng cho biết, tỉnh Yên Bái không có chủ trương trồng mới mà chỉ giữ ổn định diện tích chè như hiện nay nhưng dần thay thế các giống mới có năng suất, chất lượng cao vào cơ cấu giống chè của tỉnh với mục tiêu nâng cao thu nhập của người trồng chè lên 1,5 – 2 lần so với hiện nay.
Qua thực tiễn sản xuất, theo ông Lãi, mô hình tổ hợp tác là một lựa chọn hợp lý nhằm liên kết nông dân vào chuỗi sản xuất chè, thay vì mạnh ai nấy làm như hiện nay. Đồng quan điểm này, ông Tú Anh, Phó giám đốc Sở Nông nghiệp và PTNT tỉnh Phú Thọ cho rằng, nên tập hợp những nông dân trồng chè vào trong các tổ hợp tác, hợp tác xã và cử người đại diện giao dịch, ký kết hợp đồng bao tiêu sản phẩm với doanh nghiệp. Đồng thời, Hiệp hội Chè Việt Nam cần kiến nghị với ngành chức năng sớm thành lập sàn giao dịch chè.
Đứng trước những đòi hỏi bức thiết của việc phát triển chè bền vững tại Việt Nam đồng thời hưởng ứng chương trình hợp tác của Bộ Nông nghiệp và PTNT với 15 tập đoàn kinh tế thực hiện sáng kiến và tầm nhìn mới trong nông nghiệp, từ tháng 1/2014, Unilever, tổ chức IDH (Hà Lan) và Rainforest Alliance đã chính thức khởi động dự án hợp tác phát triển chè bền vững nhằm hướng đến mục tiêu nâng cao chất lượng và lợi thế cạnh tranh của chè nguyên liệu Việt Nam và tăng lượng chè đen xuất khẩu được chứng nhận bởi Rainforest Alliance lên 30.000 - 35.000 tấn..
Dự án sẽ được triển khai trong vòng 30 tháng, với việc áp dụng các cải tiến về mặt xã hội và môi trường cho 30 nhà máy chè tại Việt Nam và 19.000 nông hộ trồng chè quy mô nhỏ.
Các hoạt động chính của dự án bao gồm: tổ chức các khóa đào tạo cho các nông hộ trồng chè quy mô nhỏ về chứng chỉ Rainforest Alliance, giảm thiểu việc sử dụng hóa chất nông nghiệp và đào tạo cho người nông dân trong các lớp học tại hiện trường. Đại diện của Unilever cho biết, hàng nghìn nông hộ trồng chè quy mô nhỏ sẽ là đối tượng được hưởng lợi.
Với việc thành lập các lớp học cho nông dân tại hiện trường (FFS-Farmer Field Schools), dự án sẽ đào tạo cho nông dân trong mạng lưới nông nghiệp bền vững về các tiêu chuẩn để đạt được chứng nhận của Tổ chức Rainforest Alliance và cũng sẽ giúp nâng cao sản lượng và cải thiện việc quản lý sử dụng hóa chất nông nghiệp trong các nông hộ sản xuất chè quy mô nhỏ.
Được biết, cách đây hơn 2 năm, dự án phát triển chè Việt Nam của Unilever đã chính thức được khởi động và sản lượng chè đen Việt Nam được thu mua bởi Unilever đã tăng gấp 3 lần. Vì vậy, dự án hợp tác lần này là một bước quan trọng để nối dài thành công trên, nhằm lồng ghép các nông hộ sản xuất nhỏ vào chuỗi cung ứng chè chất lượng và bền vững.
Là một trong những doanh nghiệp tham gia dự án, ông Nguyễn Duy Hùng, Chủ tịch HĐQT Công ty cổ phần chè Mỹ Lâm (Tuyên Quang) cho biết, từ nguồn vốn hỗ trợ của Unilever, công ty đã đầu tư cải tạo vùng nguyên liệu chè theo đúng quy chuẩn (1ha chè có 80 cây bóng mát, có thảm cỏ chống xói mòn, rác thải được phân loại) đồng thời thành lập được tổ bảo vệ thực vật chuyên nghiệp.
Nhờ đó, chất lượng chè của Mỹ Lâm thuộc loại cao nhất vùng và đã được xuất khẩu sang EU với giá cao, công ty cũng áp dụng chính sách thu mua cao hơn giá thị trường cùng thời điểm với sản phẩm chè đạt chất lượng nên khuyến khích được nông dân sản xuất chè an toàn.
Phát biểu tại hội thảo về sản xuất chè bền vững được tổ chức mới đây, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và PTNT Cao Đức Phát nhấn mạnh, hợp tác công – tư trong sản xuất chè là một hướng đi đúng nhằm cải thiện chất lượng chè, khắc phục tình trạng phân tán, phá vỡ chuỗi liên kết, nâng cao vị thế của ngành chè Việt Nam. Bộ sẽ nghiên cứu sớm thành lập ban chỉ đạo phát triển ngành chè, đồng thời rà soát, xây dựng và ban hành quy chuẩn kỹ thuật đối với các cơ sở chế biến chè, nếu không đạt còn có hướng xử lý.
Có thể bạn quan tâm
Từ một người nông dân lam lũ, anh Nguyễn Xuân Khiêm ở thôn Đồng Đò, xã Bình Khê (Đông Triều - Quảng Ninh) đã vươn lên làm giàu, nhờ sự tính toán năng động, đã đầu tư phát triển chăn nuôi theo mô hình trang trại mỗi năm cho thu nhập hàng trăm triệu đồng.
Khoảng hơn 1 tuần trở lại đây, người dân trên thượng nguồn sông Bưởi (Thanh Hóa), đã vớt được hàng tấn cá các loại chết trắng sông. Theo người dân, có thể nguyên nhân cá chết là do Nhà máy chế biến tinh bột sắn ở Hòa Bình gây ra.
Cái thú vào nhà hàng ở Huế để thưởng thức các món ăn đặc sản vùng đầm phá Tam Giang - Cầu Hai không còn quá xa lạ đối với người dân xứ Huế và du khách.
Những năm gần đây, nghề trồng cỏ nhung tại xã Tân Khánh Đông (thành phố Sa Đéc, Đồng Tháp) phát triển mạnh, nghề này không chỉ tạo thu nhập ổn định cho người dân mà còn giúp cho nhiều lao động nhàn rỗi ở địa phương có việc làm với mức thu nhập ổn định.
Vụ mùa củ hành tím năm 2013, nông dân xã Tân Điền (Gò Công Đông - Tiền Giang) xuống giống 150 ha, nhiều nhất ở ấp Nam và ấp Trung.