Hội thảo khoa học đánh giá kết quả điều tra nguồn lợi hải sản biển Việt Nam giai đoạn 2011-2015

Đây là nội dung thuộc tiểu dự án số 9 “Điều tra tổng thể hiện trạng và biến động nguồn lợi hải sản biển Việt Nam” do Thạc sĩ Nguyễn Viết Nghĩa (Viện Nghiên cứu Hải sản) làm chủ nhiệm.
Hội thảo đã thu hút đông đảo chuyên gia trong lĩnh vực thủy sản tham dự. Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Thủy sản Phạm Anh Tuấn và Viện trưởng Viện nghiên cứu Hải sản Nguyễn Quang Hùng chủ trì Hội thảo.
Theo báo cáo tại Hội thảo, kết quả điều tra nguồn lợi hải sản cho thấy, trữ lượng hải sản Việt Nam hiện có khoảng 4,6 triệu tấn (nghiên cứu giai đoạn 2010 - 2015) với 911 loài, bao gồm 351 loài cá đáy, 244 loài cá rạn, 156 loài cá nổi, 12 loài cá nổi biển sâu, 84 loài giáp xác, 38 loài động vật chân đầu, 26 loài khác.
Trong đó, vùng biển Vịnh Bắc Bộ 430 loài, Trung Bộ 457 loài, Đông Nam Bộ 619 loài, Tây Nam Bộ 327 loài, giữa biển Đông 124 loài.
Trữ lượng nguồn lợi hải sản vùng biển Vịnh Bắc Bộ chiếm 17%, Trung Bộ chiếm 20%, Đông Nam Bộ chiếm 26%, Tây Nam Bộ chiếm 13%, giữa biển đông chiếm 24%. Phân theo vùng, trữ lượng vùng bờ chiếm 12%, vùng lộng 19% và vùng khơi 69%. Theo nhóm loài, trữ lượng cá nổi lớn chiếm 23%, cá nổi nhỏ 61%, hải sản tầng đáy 15%, giáp xác 0,9%, cá rạn san hô chiếm 0,1%.
Các loài chiếm ưu thế ở vịnh Bắc Bộ là cá nục sồ, sòng nhật, bánh đường, mối thường, sơn phát sáng, mực ống trung hoa;
Vùng Trung Bộ là cá nục sồ, hố, úc, sơn phát sáng, bánh đường;
Vùng Đông Nam Bộ là cá mối hoa, mối vạch, trác ngắn, phèn khoai, nục sồ, mối thường, ngát, ngao, sạo, lượng nhật, bạc má, mực ống, mực nang;
Vùng Tây Nam Bộ là cá bạc má, ba thú, sục, cơm, nóc, liệt, đù đầu to, phèn khoai, mực nang, mực ống; vùng giữa biển đông có cá ngừ vằn, vền, ngừ chù, thu ngàng, ngừ vây vàng, ngừ mắt to, ngừ bờ, nục heo.
Theo đánh giá của Nhóm điều tra, nguồn lợi hải sản tầng đáy có chiều hướng giảm sút khá lớn so với giai đoạn 2000 - 2005, cá nổi nhỏ giảm không đáng kể, cá nổi lớn có xu thế biến động theo chu kỳ Elnino, Lanina.
Hầu hết các vùng biển đang duy trì áp lực khai thác tương đối cao, đặc biệt là vùng Vịnh Bắc Bộ và Trung Bộ.
Vùng phân bổ tập trung bãi đẻ, bãi ương nuôi tự nhiên gồm 4 khu vực chính: ven bờ Quảng Ninh- Nam Định; ven bờ Thanh Hóa- Hà Tĩnh, ven bờ Vũng Tàu- Bạc Liêu; Vùng biển Cà Mau- Kiên Giang.
Mùa vụ sinh sản của các loài hải sản ở vùng biển thường vào tháng 3 - 5 (mùa sinh sản chính) và tháng 7 - 9 (mùa sinh sản phụ).
Với kết quả điều tra trên, Viện Nghiên cứu hải sản đề nghị Bộ Nông nghiệp sớm xem xét công bố kết quả điều tra nguồn lợi để áp dụng vào thực tiễn quản lý và sản xuất của ngành thủy sản. Đồng thời tiếp tục điều tra để đánh giá biến động nguồn lợi, làm cơ sở cho việc quản lý nguồn lợi, nghề cá theo hướng bền vững.
Tại Hội thảo, các chuyên gia cho rằng báo cáo nguồn lợi nên bổ sung số liệu từng địa phương, chú trọng vào đánh giá ngư trường, mật độ nguồn lợi, mùa vụ khai thác để phục vụ sản xuất trên biển của từng địa phương.
Các kết quả điều tra nên có đề xuất liên quan đến quản lý nghề cá, nên đánh giá biến động nguồn lợi theo thời gian.
Đồng thời, các đại biểu cũng tập trung vào thảo luận các phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong điều tra nguồn lợi hải sản. Theo đó, nên sử dụng mạng lưới địa phương trong việc thu thập số liệu, thông tin để có được nguồn dữ liệu lâu dài, bền vững…
Bên cạnh đó cũng có những ý kiến trái chiều về độ tin cậy của con số điều tra. Một chuyên gia trong lĩnh vực thủy sản cho rằng, con số trong báo cáo “vênh” quá nhiều so với con số được Tổng cục Thống kê đưa ra là 2,4 - 2,6 triệu tấn. Lý giải về điều này, đại diện nhóm điều tra cho rằng điều tra nguồn lợi hải sản mang tính chất biến động và đặc thù hơn so với các loại nguồn lợi khác.
Mặt khác, khi báo cáo về sản lượng khai thác, nhiều địa phương đã “điều chỉnh” con số, hoặc sử dụng phương pháp quy đổi riêng. Tuy nhiên, điều quan trọng là có thể chứng minh được phương pháp điều tra hợp lý và phù hợp với xu hướng sử dụng của thế giới hiện nay.
Phát biểu tại Hội thảo, Phó Tổng cục trưởng Phạm Anh Tuấn đã ghi nhận kết quả điều tra bước đầu đã đạt được những giá trị nhất định và trả lời được một số câu hỏi đặt ra đối với tình hình sản xuất trên biển hiện nay.
Tuy nhiên, báo cáo này cần phải đưa ra được giải pháp đối với quản lý, đồng thời phải chứng minh được số liệu đưa ra là đáng tin cậy, giải thích và so sánh với số liệu điều tra trong giai đoạn trước đây, đối chiếu với khai thác hiện tại, đề xuất nghề nào nên tăng, nên giảm và nên bảo vệ nghề nào, ngư trường nào, giải pháp khắc phục ra sao…
Phó Tổng cục trưởng yêu cầu các nhóm điều tra cần tổ chức thêm các hội thảo nhóm, chuyên đề chuyên sâu nhằm thống nhất về số liệu, phương pháp và điều chỉnh nội dung báo cáo theo hướng đóng góp của các đại biểu tại Hội thảo này.
Kết quả điều tra sẽ được trình Bộ Nông nghiệp thông qua và công bố vào tháng 11/2015.
Thu Hiền
Có thể bạn quan tâm

Tổng sản lượng thủy sản của Đồng Nai đề ra theo kế hoạch năm 2015 đạt khoảng 50 ngàn tấn. Trong đó, sản lượng thủy sản nuôi đạt 46.800 tấn, gồm: cá 38 ngàn tấn, tôm 7.500 tấn, các loại thủy sản khác 1.300 tấn... Riêng sản lượng thủy sản khai thác ngoài tự nhiên còn khoảng 3.200 tấn, giảm gần 50% so với năm 2014.

Cảng cá Hòn Rớ, tại xã Phước Đồng, thành phố Nha Trang là cảng cá lớn nhất Nam Trung bộ, sáng nay trở nên nhộn nhịp. Ông Mai Thành Phúc, chủ một tàu cá đánh bắt cá ngừ đại dương tại vùng biển Trường Sa cho biết, ngư dân rất phấn khởi vì các chuyến biển cuối năm, giá dầu giảm, giá cá ổn định nên hầu hết đều thắng lớn.

Những năm qua, phong trào xây dựng vùng sản xuất tập trung nuôi trồng thủy sản được các địa phương trên địa bàn huyện Vĩnh Bảo (Hải Phòng) đẩy mạnh. Nhiều địa phương tiếp thu khoa học kỹ thuật, chuyển hình thức nuôi trồng thủy sản từ quảng canh sang bán thâm canh, thâm canh và công nghiệp.

Theo đánh giá của ngành chuyên môn, những ngày đầu năm mới phong trào nuôi tôm công nghiệp không diễn ra ồ ạt như năm 2014, nguyên nhân là do giá tôm nguyên liệu trên thị trường thấp, nên nông dân ngại mở rộng diện tích mà chỉ duy trì ao đầm sẵn có để thả nuôi.

Ông Hồng cho biết, trước đây vì chưa hiểu biết nhiều về kỹ thuật và kinh nghiệm chọn lươn giống nên mô hình chăn nuôi lươn của ông đã từng gặp thất bại. Con giống không đảm bảo khiến lươn hay bị bệnh rồi chết dần. Đến nay nhờ học hỏi thêm kinh nghiệm, ngoài đảm bảo nguồn lươn thương phẩm ông còn có thể cung ứng lươn giống cho người có nhu cầu nuôi lươn.