Trang chủ / Tin tức / Mô hình kinh tế

Hội thảo khoa học đánh giá kết quả điều tra nguồn lợi hải sản biển Việt Nam giai đoạn 2011-2015

Hội thảo khoa học đánh giá kết quả điều tra nguồn lợi hải sản biển Việt Nam giai đoạn 2011-2015
Ngày đăng: 27/09/2015

Đây là nội dung thuộc tiểu dự án số 9 “Điều tra tổng thể hiện trạng và biến động nguồn lợi hải sản biển Việt Nam” do Thạc sĩ Nguyễn Viết Nghĩa (Viện Nghiên cứu Hải sản) làm chủ nhiệm.

Hội thảo đã thu hút đông đảo chuyên gia trong lĩnh vực thủy sản tham dự. Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Thủy sản Phạm Anh Tuấn và Viện trưởng Viện nghiên cứu Hải sản Nguyễn Quang Hùng chủ trì Hội thảo.

Theo báo cáo tại Hội thảo, kết quả điều tra nguồn lợi hải sản cho thấy, trữ lượng hải sản Việt Nam hiện có khoảng 4,6 triệu tấn (nghiên cứu giai đoạn 2010 - 2015) với 911 loài, bao gồm 351 loài cá đáy, 244 loài cá rạn, 156 loài cá nổi, 12 loài cá nổi biển sâu, 84 loài giáp xác, 38 loài động vật chân đầu, 26 loài khác.

Trong đó, vùng biển Vịnh Bắc Bộ 430 loài, Trung Bộ 457 loài, Đông Nam Bộ 619 loài, Tây Nam Bộ 327 loài, giữa biển Đông 124 loài.

Trữ lượng nguồn lợi hải sản vùng biển Vịnh Bắc Bộ chiếm 17%, Trung Bộ chiếm 20%, Đông Nam Bộ chiếm 26%, Tây Nam Bộ chiếm 13%, giữa biển đông chiếm 24%. Phân theo vùng, trữ lượng vùng bờ chiếm 12%, vùng lộng 19% và vùng khơi 69%. Theo nhóm loài, trữ lượng cá nổi lớn chiếm 23%, cá nổi nhỏ 61%, hải sản tầng đáy 15%, giáp xác 0,9%, cá rạn san hô chiếm 0,1%.

Các loài chiếm ưu thế ở vịnh Bắc Bộ là cá nục sồ, sòng nhật, bánh đường, mối thường, sơn phát sáng, mực ống trung hoa;

Vùng Trung Bộ là cá nục sồ, hố, úc, sơn phát sáng, bánh đường;

Vùng Đông Nam Bộ là cá mối hoa, mối vạch, trác ngắn, phèn khoai, nục sồ, mối thường, ngát, ngao, sạo, lượng nhật, bạc má, mực ống, mực nang;

Vùng Tây Nam Bộ là cá bạc má, ba thú, sục, cơm, nóc, liệt, đù đầu to, phèn khoai, mực nang, mực ống; vùng giữa biển đông có cá ngừ vằn, vền, ngừ chù, thu ngàng, ngừ vây vàng, ngừ mắt to, ngừ bờ, nục heo.

Theo đánh giá của Nhóm điều tra, nguồn lợi hải sản tầng đáy có chiều hướng giảm sút khá lớn so với giai đoạn 2000 - 2005, cá nổi nhỏ giảm không đáng kể, cá nổi lớn có xu thế biến động theo chu kỳ Elnino, Lanina.

Hầu hết các vùng biển đang duy trì áp lực khai thác tương đối cao, đặc biệt là vùng Vịnh Bắc Bộ và Trung Bộ.

Vùng phân bổ tập trung bãi đẻ, bãi ương nuôi tự nhiên gồm 4 khu vực chính: ven bờ Quảng Ninh- Nam Định; ven bờ Thanh Hóa- Hà Tĩnh, ven bờ Vũng Tàu- Bạc Liêu; Vùng biển Cà Mau- Kiên Giang.

Mùa vụ sinh sản của các loài hải sản ở vùng biển thường vào tháng 3 - 5 (mùa sinh sản chính) và tháng 7 - 9 (mùa sinh sản phụ).

Với kết quả điều tra trên, Viện Nghiên cứu hải sản đề nghị Bộ Nông nghiệp sớm xem xét công bố kết quả điều tra nguồn lợi để áp dụng vào thực tiễn quản lý và sản xuất của ngành thủy sản. Đồng thời tiếp tục điều tra để đánh giá biến động nguồn lợi, làm cơ sở cho việc quản lý nguồn lợi, nghề cá theo hướng bền vững.

Tại Hội thảo, các chuyên gia cho rằng báo cáo nguồn lợi nên bổ sung số liệu từng địa phương, chú trọng vào đánh giá ngư trường, mật độ nguồn lợi, mùa vụ khai thác để phục vụ sản xuất trên biển của từng địa phương.

Các kết quả điều tra nên có đề xuất liên quan đến quản lý nghề cá, nên đánh giá biến động nguồn lợi theo thời gian.

Đồng thời, các đại biểu cũng tập trung vào thảo luận các phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong điều tra nguồn lợi hải sản. Theo đó, nên sử dụng mạng lưới địa phương trong việc thu thập số liệu, thông tin để có được nguồn dữ liệu lâu dài, bền vững…

Bên cạnh đó cũng có những ý kiến trái chiều về độ tin cậy của con số điều tra. Một chuyên gia trong lĩnh vực thủy sản cho rằng, con số trong báo cáo “vênh” quá nhiều so với con số được Tổng cục Thống kê đưa ra là 2,4 - 2,6 triệu tấn. Lý giải về điều này, đại diện nhóm điều tra cho rằng điều tra nguồn lợi hải sản mang tính chất biến động và đặc thù hơn so với các loại nguồn lợi khác.

Mặt khác, khi báo cáo về sản lượng khai thác, nhiều địa phương đã “điều chỉnh” con số, hoặc sử dụng phương pháp quy đổi riêng. Tuy nhiên, điều quan trọng là có thể chứng minh được phương pháp điều tra hợp lý và phù hợp với xu hướng sử dụng của thế giới hiện nay.

Phát biểu tại Hội thảo, Phó Tổng cục trưởng Phạm Anh Tuấn đã ghi nhận kết quả điều tra bước đầu đã đạt được những giá trị nhất định và trả lời được một số câu hỏi đặt ra đối với tình hình sản xuất trên biển hiện nay.

Tuy nhiên, báo cáo này cần phải đưa ra được giải pháp đối với quản lý, đồng thời phải chứng minh được số liệu đưa ra là đáng tin cậy, giải thích và so sánh với số liệu điều tra trong giai đoạn trước đây, đối chiếu với khai thác hiện tại, đề xuất nghề nào nên tăng, nên giảm và nên bảo vệ nghề nào, ngư trường nào, giải pháp khắc phục ra sao…

Phó Tổng cục trưởng yêu cầu các nhóm điều tra cần tổ chức thêm các hội thảo nhóm, chuyên đề chuyên sâu nhằm thống nhất về số liệu, phương pháp và điều chỉnh nội dung báo cáo theo hướng đóng góp của các đại biểu tại Hội thảo này.

Kết quả điều tra sẽ được trình Bộ Nông nghiệp thông qua và công bố vào tháng 11/2015.

Thu Hiền


Có thể bạn quan tâm

Trung Tâm Chuỗi Cá Tra Trung Tâm Chuỗi Cá Tra

Không ít doanh nhân tâm huyết với cá tra như ông Trần Văn Hùng, Tổng Giám đốc Công ty TNHH Hùng Cá, phải bức xúc về một số doanh nghiệp cạnh tranh không lành mạnh làm giảm chất lượng và uy tín cá tra trên thị trường.

21/07/2014
Những HTX Điển Hình Sản Xuất, Kinh Doanh Giỏi Những HTX Điển Hình Sản Xuất, Kinh Doanh Giỏi

Trong số hơn 30 HTX sản xuất, kinh doanh mạnh của tỉnh, HTX dịch vụ nông nghiệp (DVNN) Nam Dương, xã Nam Dương (Nam Trực), HTXDVNN Thịnh Thắng, xã Giao Thịnh (Giao Thủy) là những điển hình về tổ chức các hoạt động dịch vụ thiết yếu mang lại hiệu quả cao. Các HTX đã tập trung nguồn lực, đẩy mạnh các hoạt động dịch vụ, hỗ trợ, phục vụ xã viên trong các khâu trong quá trình sản xuất. Nhờ vậy, nhiều hộ xã viên đã nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống.

08/12/2014
Nuôi Thủy Sản Trên Vùng Đất Phèn Nuôi Thủy Sản Trên Vùng Đất Phèn

Cùng với hành trình khai hoang, cải hóa Đồng Tháp Mười, vùng đất nhiễm phèn nặng dần dần được chuyển hóa tạo điều kiện cho nhiều loài thủy sản có điều kiện sinh sống và phát triển.

21/07/2014
Phát Triển Nông Nghiệp Hữu Cơ Cú Huých Cho Ngành Nông Nghiệp Phát Triển Nông Nghiệp Hữu Cơ Cú Huých Cho Ngành Nông Nghiệp

Thống kê của Cục Trồng trọt (Bộ NN&PTNT), mỗi năm Việt Nam sử dụng 10 triệu tấn phân bón các loại và đang là một trong những nước sử dụng phân bón/đơn vị diện tích cao nhất trên thế giới. Trong 3 năm gần đây, Việt Nam đã nhập và sử dụng từ 70 nghìn đến 100 nghìn tấn hóa chất bảo vệ thực vật (BVTV) thành phẩm để phục vụ sản xuất nông nghiệp. Điều này khiến một lượng lớn hóa chất BVTV tồn lưu, gây nguy hại cho sức khỏe con người cũng như môi trường.

08/12/2014
Quảng Ninh Sản Xuất Thành Công Giống Cá Song Chấm Nâu Quảng Ninh Sản Xuất Thành Công Giống Cá Song Chấm Nâu

Với trên 21km bờ biển cùng với hàng ngàn ha bãi triều, Đầm Hà (Quảng Ninh) thực sự giàu tiềm năng phát triển nghề nuôi trồng hải sản, đặc biệt là những loài hải sản có giá trị kinh tế cao như cá song, cá vược, cua, ngao, tu hài...

22/07/2014