Gỡ khó cho tôm hùm
Theo Vụ Nuôi trồng thủy sản (Tổng cục Thủy sản), tôm hùm ở nước ta phân bố từ Quảng Bình đến Bình Thuận, nhưng tập trung nhiều nhất tại các tỉnh Phú Yên, Khánh Hòa. Đến nay, số lượng lồng nuôi ước tính hơn 53.000 lồng, trong đó Phú Yên 23.627 lồng, Khánh Hòa 28.455 lồng với khoảng 8.000 - 10.000 hộ nuôi, sản lượng đạt khoảng 1.600 tấn/năm, đem lại nguồn thu gần 4.000 tỷ đồng/năm.
Tuy được xem là đối tượng nuôi chính và có giá trị cao, nhưng thực tế nghề tôm hùm thiếu bền vững. Nguồn giống tôm hùm hiện nay phụ thuộc hoàn toàn vào đánh bắt tự nhiên, ước tính hàng năm khai thác được từ 7 - 9 triệu con giống. Ông Huỳnh Kim Khánh, Chi cục trưởng Chi cục Nuôi trồng thủy sản tỉnh cho biết, hiện nay vấn đề con giống phục vụ cho người nuôi rất bị động, bởi chưa sản xuất được con giống. Thế nhưng hiện nay, nguồn tôm giống trong nước cạn kiệt dần do mất môi trường sống. Tại Khánh Hòa, con giống khai thác tự nhiên chỉ đáp ứng được 30 - 40%, còn lại chủ yếu nhập khẩu. Đã vậy, nguồn tôm nhập khẩu chưa có những quy chuẩn kiểm dịch cụ thể để kiểm soát.
Theo định hướng, đến năm 2020 sản lượng tôm hùm nước ta đạt 2.000 - 2.500 tấn. Để đạt được mục tiêu này, theo ông Phạm Khánh Ly - Phó Vụ trưởng Vụ Nuôi trồng thủy sản, trước hết cần giải quyết được gốc rễ các loại dịch bệnh đang gây ra cho tôm hùm. Từ đầu năm 2015 đến nay, tỷ lệ tôm hùm bị bệnh sữa, sữa đỏ chiếm khoảng 25 - 30% và đang gây thiệt hại nặng nề cho người nuôi. Còn Tiến sĩ Nguyễn Thị Bích Thúy, nguyên cán bộ Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản III thì cho rằng, trong mấy năm qua, đã có khá nhiều đề tài nghiên cứu về nuôi tôm hùm, nhưng những đề tài này đa phần nghiên cứu xong rồi thôi, không có ai kế thừa, tiếp tục hoàn thiện nên không phát huy hiệu quả.
Ông Lê Anh Tuấn (Trường Đại học Nha Trang) lấy ví dụ ở Cuba, mỗi năm nước này xuất bán 10.000 tấn tôm hùm, đều là tôm hùm tự nhiên. Đạt được kết quả đó là do họ thành công trong việc bảo tồn nguồn lợi tôm để khai thác một cách hợp lý. “Ở nước ta, sản lượng chỉ bằng 15% của Cuba. Điều này chúng ta phải cân nhắc lại, nên nghiên cứu việc bảo tồn loài tôm tự nhiên để khai thác và nuôi tôm công nghiệp, cái nào hiệu quả hơn để có những điều chỉnh cho định hướng phát triển tôm hùm”, ông Tuấn kiến nghị.
Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Vũ Văn Tám cho rằng, để tháo gỡ những vướng mắc một cách căn cơ, trước mắt Tổng cục Thủy sản gấp rút phối hợp với các đơn vị chuyên trách, các địa phương hoàn thành chi tiết các vùng nuôi tôm. Ngoài ra, việc nghiên cứu và áp dụng khoa học kỹ thuật vào việc ngăn chặn dịch bệnh, thử nghiệm nuôi tôm hùm giống cần triển khai mạnh mẽ hơn. “Đầu ra của tôm hùm hiện nay đang khó khăn, báo chí phản ánh nhiều về việc quá phụ thuộc vào Trung Quốc. Thời gian tới, các ngành chức năng và địa phương nuôi tôm cần có thêm nhiều nghiên cứu để đa dạng loại giống tôm nuôi, làm sao phù hợp với nhiều thị trường để chủ động trong việc tiêu thụ. Nếu quá phụ thuộc vào Trung Quốc như hiện nay, chúng ta sẽ gặp nhiều rủi ro”, ông Tám nói thêm.
Có thể bạn quan tâm
Theo ông Đinh Trung Kiên, Trưởng Phòng NN&PTNT huyện Vân Đồn (Quảng Ninh), nghề nuôi trồng tu hài đã phát triển nhiều năm nay ở địa phương. Đến nay, Vân Đồn đã có khoảng 100 hộ gia đình và 3 doanh nghiệp nuôi tu hài, thu hút một lượng lớn lao động và mang lại thu nhập khá cao cho ngư dân trong vùng.
Hiện cả nước có 6.000 cơ sở chế biến có công nghệ thiết bị tương đối hiện đại, trong đó, hơn 2.000 cơ sở chế biến nông sản, 570 cơ sở chế biến thủy sản và 3.000 cơ sở chế biến gỗ. Một số ngành đã đáp ứng được yêu cầu chất lượng đối với các thị trường khó tính như Mỹ, EU, Nhật Bản…, điển hình như thủy sản, nhân hạt điều, hồ tiêu, đồ gỗ...
Thanh Hóa là tỉnh có diện tích rừng và đất lâm nghiệp lớn, với 626.757 ha, trong đó có 567.000 ha rừng và gần 60.000 ha đất chưa có rừng. Đây là tiềm năng lớn để tạo bước đột phá cơ bản cho phát triển kinh tế - xã hội, tuy nhiên tiềm năng này chưa được khơi dậy một cách hiệu quả, bền vững.
Tuy nhiên, qua khảo sát thực tế của ngành chức năng thì hiệu quả kinh tế của cây mía chưa cao, nhất là những diện tích mía tơ (năm đầu) lợi nhuận thấp (chỉ khoảng 3 triệu đồng/ha). Cũng do những vùng đất này trước bị bỏ hoang, nên dinh dưỡng trong đất kém, do đó phải chờ đến năm thứ 2, thứ 3 (mía gốc), nông dân mới có lợi nhuận từ 15 đến 20 triệu đồng/ha/năm.
Những vườn tiêu xanh tốt bời bời trên vùng đất Kông Chro (Gia Lai) là hình ảnh rất hiếm gặp. Tuy nhiên, đi qua 2 xã Yang Trung và Chơ Long, chứng kiến nhiều vườn tiêu cả ngàn trụ, năng suất không thua kém “thủ phủ” hồ tiêu của tỉnh dễ khiến người ta tò mò...