Chính sách là đòn bẩy để thu hút đầu tư nông nghiệp công nghệ cao
Trong bối cảnh đó, sản xuất nông nghiệp theo xu hướng chất lượng cao là tất yếu để tạo lập được thương hiệu cho nông sản Việt Nam và tăng sức cạnh tranh thị trường.
Chúng tôi đã trao đổi với GS,TS Võ Tòng Xuân (ảnh), Anh hùng Lao động, người đã có những đóng góp và luôn dành tâm huyết cho sản xuất nông nghiệp đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), xung quanh vấn đề này.
Thưa giáo sư, trước tiên chúng ta hãy nhận diện sản xuất nông nghiệp hiện nay ở ĐBSCL ?
- Vì sao chúng ta đã có hơn 25 năm xuất khẩu gạo, nhưng sao vẫn chưa thể gọi là chuyên nghiệp trong lĩnh vực này? Nhìn lại, chúng ta tăng sản lượng nông sản dễ: từ thiếu ăn, thiếu mặc chuyển sang dư thừa để xuất khẩu.
Vì chính sách đổi mới quản lý nông nghiệp khuyến khích sản xuất cá thể, nông dân có thủy lợi, giống mới, vật tư nông nghiệp mua bán tự do, mạnh ai nấy sản xuất theo khả năng mình.
Tuy nhiên, sau một thời gian, nhiều điểm yếu đã bộc lộ.
Nổi lên là tập quán “hùa nhau bắt chước” trồng cây, nuôi con bất chấp nhu cầu thị trường.
Và tất nhiên sẽ dẫn đến các hệ lụy.
Cụ thể, khó tăng chất lượng sản phẩm, vì: không theo quy định an toàn vệ sinh thực phẩm; áp dụng kỹ thuật nuôi trồng theo kinh nghiệm chứ ít nghiêm túc tuân theo quy trình GAP, mẫu mã sản phẩm không đúng chuẩn nông nghiệp cao GAP (thực hành sản xuất nông nghiệp tốt) nên chất lượng nguyên liệu không đạt chuẩn an toàn; thủy sản phát triển, nhưng không bền vững; chăn nuôi phát triển chậm… khó tìm đầu ra.
Cảnh trúng mùa rớt giá nhãn tiền; chuyện “trồng rồi chặt, chặt rồi trồng” gây thiệt hại lớn cho nhà nông luôn tiếp diễn.
Giáo sư nhận định gì về nguồn lực chúng ta đầu tư cho nông nghiệp công nghệ cao ?
- Đây là vấn đề sống còn của sản xuất nông nghiệp Việt Nam trong bối cảnh chúng ta hội nhập sâu rộng.
Lấy cây lúa làm ví dụ, Nhà nước và nhân dân tập trung đầu tư đúng mức cho lĩnh vực thủy lợi… Nhưng nói để nông dân muốn đầu tư làm nhà lưới, các máy móc hiện đại phục vụ sản xuất nông nghiệp thì còn nhiều vấn đề phải nói, phần lớn nông dân phải tự bỏ tiền đầu tư.
Ngay trong sản xuất lúa, khâu giống, kỹ thuật gần như giao cho các viện nghiên cứu và giao cho họ “tìm nguồn tiền” chứ không giao cấp kinh phí nghiên cứu về cây lúa.
Và nhiều viện, trường gặp khó khi vận động tổ chức tài trợ - họ nói: “Gạo anh xuất khẩu rồi, “hỗ trợ” gì !?” Những doanh nghiệp lớn xuất khẩu gạo như các tổng công ty lương thực đã đầu tư gì nghiên cứu cho cây lúa? Đó là một câu hỏi theo dạng dân gian hay nói “có qua, có lại, mới toại lòng nhau”!
Nhiều doanh nghiệp dạng “đại gia” đã nhảy vào đầu tư trong lĩnh vực nông nghiệp, Công ty Bảo vệ thực vật An Giang (AGPPS) là một ví dụ tại ĐBSCL ?
- Đây là một tín hiệu tốt.
Tuy nhiên, phương thức đầu tư, mối liên kết hài hòa giữa nông dân và doanh nghiệp ra sao… vẫn cần thời gian đánh giá.
Vừa qua, AGPPS đầu tư vào nông nghiệp.
Tuy nhiên, mô hình đầu tư này cần có những đánh giá chính xác có làm cho nông dân sử dụng nhiều thuốc BVTV, chi phí tăng hay không.
Mô hình này khó “bắt chước”.
Vì có cả ngàn nhân viên của AGPPS cùng nông dân ra đồng.
Thực tế, ở ĐBSCL đã có doanh nghiệp vừa đầu tư nguồn lực đầu vào giúp hàng nông sản đạt tiêu chuẩn GlobalGAP, vừa bao tiêu luôn sản phẩm, đáp ứng đúng nguyện vọng của nông dân.
Còn AGPPS thì đầu tư theo từng phân khúc.
lVậy, theo giáo sư, muốn tăng tốc thu hút đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao thì doanh nghiệp hay chính sách là vấn đề mấu chốt ?
- Theo tôi, hiện tại chính sách để kêu gọi đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp là quan trọng.
Nhiều doanh nghiệp vẫn còn dè dặt trong lĩnh vực này - nhất là doanh nghiệp nước ngoài.
Doanh nghiệp nước ngoài thích đầu tư vào nông nghiệp nhưng chính sách của chúng ta cần hoàn thiện minh bạch, để họ không còn e ngại sự cạnh tranh với doanh nghiệp trong nước.
Cần chuẩn bị nguồn nhân lực cho làn gió đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao ra sao, thưa giáo sư ?
- Trước hết, các trường cao đẳng nghề hoặc đại học thực hành phải thiết kế chương trình đào tạo nhân lực chuyên môn cung cấp cho HTX nông nghiệp (HTXNN), các khu công nghiệp chế biến hàng nông sản, các chương trình PR, tiếp thị.
Nguồn nhân lực đại học, cao đẳng có năng lực quản lý kinh doanh nông nghiệp này sẽ tham gia trong Ban điều hành của HTXNN nào chưa có cán bộ dạng này.
Xã viên các HTXNN phải được huấn luyện thật kỹ quy trình GAP của loại sản phẩm nuôi trồng, bảo đảm năng lực cạnh tranh trong sản xuất ngành hàng.
Mọi nông dân đổi mới, không làm ăn cá thể nữa, mà phải tham gia HTXNN hoặc Hiệp hội sản xuất ngành hàng (lúa gạo, xoài, vú sữa, bưởi…).
Xin cảm ơn giáo sư !
Có thể bạn quan tâm
Hai năm trở lại đây, ngành mía đường đã hết thời kỳ ngọt ngào khi phải đối diện với việc nguồn cung trong nước đã vượt quá nhu cầu tiêu thụ.
Theo Sở Công Thương tỉnh Hậu Giang, hiện nông dân trong tỉnh còn tạm trữ hơn 47.000 tấn lúa thương phẩm, đây là sản lượng lúa tồn đọng từ vụ lúa Đông Xuân, Hè Thu từ đầu năm 2014. Tuy gần đây giá lúa trên thị trường tăng nhẹ, là thời điểm thích hợp bán ra nhưng gặp phải mưa bão liên miên trong những ngày qua, thương lái đã ép giá, khiến đầu ra hạt lúa thêm khó khăn.
Ông Phạm Hữu Đức, Chủ tịch UBND xã Thuận An cho biết, rau diếp cá và xà lách xoong là 2 loại cây trồng chủ lực của xã, đem lại nguồn thu nhập khá cao. Đầu ra của diếp cá rất ổn định, chủ yếu tiêu thụ ở TP. Hồ Chí Minh và các tỉnh ĐBSCL. Diện tích diếp cá của toàn xã khoảng 5 ha.
Anh Hà Văn An, một trong sáu chủ vựa lớn ở chân núi Cấm, xã An Hảo, huyện Tịnh Biên cho hay: Vào thời điểm tháng 9, mỗi ngày anh thu mua từ 1 - 3 tấn măng tươi. Ngoài các vựa thu gom măng ở ấp An Hoà, còn có những chuyến hàng đi thẳng từ Lâm Viên tới Châu Đốc, Long Xuyên, Cần Thơ và các chợ ở TP.HCM. Bình quân mỗi chuyến trừ hết chi phí còn lãi gần 7 triệu đồng.
Ngày 16/9, Thứ trưởng Bộ NN-PTNT Vũ Văn Tám đã có buổi làm việc với lãnh đạo tỉnh Quảng Nam về việc triển khai Nghị định 67 của Chính phủ về một số chính sách phát triển thủy sản.